Mua Quỳnh Chi

Giới thiệu về bản thân

Chào mừng bạn đến với trang cá nhân của Mua Quỳnh Chi
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
(Thường được cập nhật sau 1 giờ!)


Câu 1



Đoạn văn nghị luận phân tích vẻ đẹp hình ảnh Sông Hồng:


Trong đoạn thơ, Sông Hồng hiện lên không chỉ là một dòng sông cụ thể mà còn mang hình tượng thiêng liêng của “mẹ” – người mẹ vĩ đại của dân tộc. Nhân vật trữ tình cảm nhận Sông Hồng như một thực thể sống, mang trong lòng mình “bao điều bí mật”, “bao kho vàng cổ tích” – gợi ra chiều sâu lịch sử, văn hóa phong phú của dân tộc Việt. Con sông ấy không chỉ là nhân chứng cho bao biến cố mà còn là nơi tích tụ những đau thương và kiên cường: “bao tiếng rên nhọc nhằn”, “người quằn quại dưới mưa dầm nắng gắt”. Vẻ đẹp Sông Hồng vì thế vừa hùng vĩ, vừa giàu tình thương, vừa thầm lặng hy sinh. Dòng sông ấy còn là nguồn sống, nuôi dưỡng con người bằng hạt gạo, nhành dâu – những biểu tượng của cuộc sống bình dị, giản đơn. Hình ảnh Sông Hồng qua cảm nhận của nhân vật trữ tình không chỉ là vẻ đẹp thiên nhiên, mà còn là biểu tượng của cội nguồn, của lịch sử, văn hóa và sức sống mãnh liệt của dân tộc Việt Nam.





Câu 2



Bài văn nghị luận: Tuổi trẻ với việc làm chủ công nghệ trong thời đại 4.0


Chúng ta đang sống trong thời đại của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 – nơi mà trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn và tự động hóa đang định hình lại toàn bộ thế giới. Trong bối cảnh ấy, tuổi trẻ không chỉ là tương lai của đất nước mà còn là lực lượng tiên phong, đóng vai trò quyết định trong việc làm chủ công nghệ, dẫn dắt sự phát triển của xã hội hiện đại.


Làm chủ công nghệ không đơn thuần là sử dụng thành thạo các thiết bị điện tử hay các phần mềm phổ biến. Đó là quá trình tư duy sáng tạo, chủ động tiếp cận, tìm hiểu, phát triển và ứng dụng công nghệ vào mọi lĩnh vực của đời sống. Trong thời đại 4.0, công nghệ không chỉ phục vụ giải trí hay tiện ích cá nhân mà còn là công cụ mạnh mẽ để phát triển kinh tế, giáo dục, y tế, môi trường và cả quản lý xã hội. Tuổi trẻ – với sự nhạy bén, năng động, khả năng học hỏi cao – có đủ điều kiện để dẫn dắt sự chuyển mình của xã hội nếu biết tận dụng thời cơ và nỗ lực rèn luyện.


Tuy nhiên, muốn làm chủ công nghệ, người trẻ cần trang bị kiến thức nền tảng vững chắc về khoa học, kỹ thuật, ngoại ngữ và tư duy logic. Quan trọng hơn, họ cần có thái độ cầu tiến, tinh thần trách nhiệm và ý thức đạo đức trong việc sử dụng công nghệ. Không thiếu những bạn trẻ đang làm rạng danh đất nước trong lĩnh vực công nghệ, đổi mới sáng tạo, khởi nghiệp kỹ thuật số. Nhưng bên cạnh đó, vẫn còn một bộ phận không nhỏ lạm dụng công nghệ cho mục đích tiêu cực: sống ảo, nghiện mạng xã hội, vi phạm quyền riêng tư người khác,… Điều đó cho thấy làm chủ công nghệ không chỉ là làm chủ công cụ, mà còn là làm chủ chính mình.


Là một người trẻ, tôi nhận thức rằng công nghệ không phải là đích đến, mà là phương tiện để chúng ta giải quyết những vấn đề của xã hội, cải thiện chất lượng sống và mở rộng giới hạn tri thức. Muốn làm chủ công nghệ, mỗi bạn trẻ cần chủ động học hỏi, dám dấn thân và không ngừng đổi mới bản thân. Đồng thời, phải biết trân trọng giá trị nhân văn, không để công nghệ làm mất đi sự gắn bó giữa người với người, giữa con người với thiên nhiên.


Tuổi trẻ chính là nguồn lực đổi mới mạnh mẽ nhất của quốc gia. Trong thời đại 4.0, làm chủ công nghệ không chỉ là một lựa chọn, mà là một trách nhiệm. Để từ đó, thế hệ trẻ có thể góp phần xây dựng đất nước không chỉ giàu mạnh về kinh tế mà còn tiến bộ, nhân văn và phát triển bền vững.


Câu 1

Dấu hiệu xác định thể thơ của đoạn trích:

Đoạn thơ được viết theo thể tự do, thể hiện qua độ dài ngắn không đều của các dòng thơ, không tuân theo số chữ cố định, không có vần đều đặn nhưng vẫn giàu nhạc điệu và cảm xúc.




Câu 2

Tác giả cảm nhận con sông đã làm nên, tạo ra những điều gì cho cuộc sống con người:

Con sông làm nên xóm thôn, hoa trái, ngôi nhà, sắc áo, màu cây và cả tiếng Việt. Con sông cũng tạo nên nền văn hóa, lịch sử, góp phần hình thành bản sắc và cuộc sống của dân tộc.




Câu 3

Hiệu quả của biện pháp tu từ điệp ngữ trong các dòng thơ:


một con sông dịu dàng như lục bát

một con sông phập phồng muôn bắp thịt

một con sông đỏ rực

nhuộm hồng nâu da người.


Biện pháp điệp ngữ “một con sông” được lặp lại nhiều lần nhằm nhấn mạnh hình ảnh dòng sông Hồng với những đặc điểm khác nhau: dịu dàng, mạnh mẽ, đầy sức sống và mang dấu ấn dân tộc. Qua đó, tác giả thể hiện sự đa dạng, phong phú của con sông – vừa gắn bó, thân quen, vừa thiêng liêng, hào hùng. Điều này làm nổi bật vai trò to lớn và thiêng liêng của con sông đối với con người và dân tộc.




Câu 4

Cảm xúc của nhân vật trữ tình với Sông Hồng:

Nhân vật trữ tình thể hiện tình cảm thiêng liêng, trân trọng và biết ơn sâu sắc đối với Sông Hồng – dòng sông mẹ. Đó là sự ngưỡng mộ trước vẻ đẹp và vai trò lịch sử, văn hóa của con sông, đồng thời là sự thấu hiểu những hy sinh, nhọc nhằn mà dòng sông đã gánh chịu để nuôi dưỡng và chở che cho con người.




Câu 5

Suy nghĩ về trách nhiệm của thế hệ trẻ ngày nay với quê hương, đất nước:

Từ đoạn thơ, tôi hiểu rằng thế hệ trẻ hôm nay có trách nhiệm giữ gìn và phát huy những giá trị văn hóa, lịch sử mà cha ông để lại. Chúng ta cần sống có lý tưởng, học tập và lao động sáng tạo để xây dựng đất nước ngày càng giàu đẹp. Đồng thời, mỗi người trẻ phải ý thức bảo vệ môi trường, đặc biệt là những dòng sông – biểu tượng của sự sống, văn hóa và cội nguồn dân tộc.


Câu 1.

Bài Làm

Môi trường là không gian sống thiết yếu, là nơi con người sinh tồn, phát triển và nuôi dưỡng đời sống tinh thần. Tuy nhiên, trước thực trạng biến đổi khí hậu, ô nhiễm và suy thoái môi trường ngày càng trầm trọng, việc bảo vệ môi trường trở thành nhiệm vụ cấp bách và có ý nghĩa sống còn đối với toàn nhân loại. Một môi trường trong lành không chỉ đảm bảo sức khỏe, an toàn cho mỗi cá nhân mà còn gìn giữ hệ sinh thái bền vững cho các thế hệ tương lai. Ngược lại, sự tàn phá thiên nhiên kéo theo hậu quả nặng nề, không chỉ về vật chất mà còn gây tổn thương sâu sắc về tâm lí, như hiện tượng “tiếc thương sinh thái” được đề cập trong phần đọc hiểu. Môi trường còn gắn bó chặt chẽ với văn hóa, bản sắc và đời sống tinh thần của con người. Vì vậy, bảo vệ môi trường không chỉ là hành động vì tự nhiên, mà còn là vì chính sự tồn tại, sự phát triển toàn diện của nhân loại. Mỗi chúng ta cần nâng cao ý thức, có hành động thiết thực, chung tay vì một Trái Đất xanh, sạch, đẹp.

Câu 2:

Bài Làm

Trong dòng chảy văn học trung đại Việt Nam, hình tượng người ẩn sĩ — những con người sống thanh nhàn, thoát tục — được khắc họa sinh động qua nhiều tác phẩm. Hai bài thơ “Nhàn” của Nguyễn Bỉnh Khiêm và bài thơ thu của Nguyễn Khuyến đều thể hiện vẻ đẹp này, tuy cùng chủ đề nhưng mỗi tác phẩm lại mang sắc thái riêng biệt, thể hiện tâm thế khác nhau của người ẩn sĩ.

Trong bài thơ “Nhàn”, Nguyễn Bỉnh Khiêm xây dựng hình ảnh một ẩn sĩ chủ động tìm kiếm cuộc sống thanh nhàn, hòa mình với thiên nhiên. Những hình ảnh “một mai, một cuốc, một cần câu” giản dị, mộc mạc thể hiện cuộc sống tự cung tự cấp, gần gũi với đất trời. Tác giả đối lập giữa “ta dại” và “người khôn”, để khẳng định sự lựa chọn sống xa rời chốn danh lợi, “nơi vắng vẻ” để tìm lấy sự an nhiên. Các hoạt động hằng ngày như ăn măng trúc, tắm hồ sen, uống rượu dưới bóng cây… cho thấy niềm vui trọn vẹn trong cuộc sống thanh bần mà đầy tự do, không vướng bận bon chen. Hình tượng ẩn sĩ ở đây mang vẻ đẹp của sự chủ động, tự tại, coi thường phù hoa phú quý, nhận thức sâu sắc tính vô thường của cuộc đời.

Ngược lại, trong bài thơ của Nguyễn Khuyến, hình ảnh người ẩn sĩ lại nhuốm màu sắc buồn vời vợi của mùa thu. Không gian được miêu tả “trời thu xanh ngắt”, “cần trúc lơ phơ”, “nước biếc” và “bóng trăng” gợi một khung cảnh vừa trong trẻo vừa hiu hắt. Người ẩn sĩ như chìm đắm trong cảnh sắc thiên nhiên mà lòng chất chứa nỗi niềm cô đơn, tiếc nuối. Khi “toan cất bút” nhưng “lại thẹn với ông Đào” (Đào Tiềm – biểu tượng cho chí thanh cao), Nguyễn Khuyến đã thể hiện một tâm trạng vừa kính trọng, vừa tự cảm thấy chưa đạt đến sự thanh thản tuyệt đối của bậc ẩn sĩ lý tưởng. Ẩn sĩ trong thơ ông mang nét trầm tư, sâu lắng hơn, phản ánh tâm sự của một trí thức buồn vì thời thế, lánh đời nhưng không nguôi canh cánh nỗi niềm với vận nước.

Như vậy, cùng nói về hình tượng người ẩn sĩ, Nguyễn Bỉnh Khiêm nhấn mạnh vẻ đẹp ung dung tự tại, sự lựa chọn dứt khoát, còn Nguyễn Khuyến lại khắc họa tâm thế trăn trở, ưu tư trong sự ẩn dật. Một người chọn lánh đời với tâm thế thảnh thơi, một người lánh đời mà lòng vẫn chưa nguôi nỗi ưu hoài.

Dù mang sắc thái khác nhau, cả hai bài thơ đều thể hiện vẻ đẹp tâm hồn thanh cao, tình yêu thiên nhiên và thái độ coi thường danh lợi. Qua đó, ta cảm nhận được vẻ đẹp tinh thần truyền thống của người trí thức xưa: yêu tự do, sống chan hòa với thiên nhiên, hướng tới những giá trị tinh thần vĩnh cửu.

Câu 1.

Bài Làm

Môi trường là không gian sống thiết yếu, là nơi con người sinh tồn, phát triển và nuôi dưỡng đời sống tinh thần. Tuy nhiên, trước thực trạng biến đổi khí hậu, ô nhiễm và suy thoái môi trường ngày càng trầm trọng, việc bảo vệ môi trường trở thành nhiệm vụ cấp bách và có ý nghĩa sống còn đối với toàn nhân loại. Một môi trường trong lành không chỉ đảm bảo sức khỏe, an toàn cho mỗi cá nhân mà còn gìn giữ hệ sinh thái bền vững cho các thế hệ tương lai. Ngược lại, sự tàn phá thiên nhiên kéo theo hậu quả nặng nề, không chỉ về vật chất mà còn gây tổn thương sâu sắc về tâm lí, như hiện tượng “tiếc thương sinh thái” được đề cập trong phần đọc hiểu. Môi trường còn gắn bó chặt chẽ với văn hóa, bản sắc và đời sống tinh thần của con người. Vì vậy, bảo vệ môi trường không chỉ là hành động vì tự nhiên, mà còn là vì chính sự tồn tại, sự phát triển toàn diện của nhân loại. Mỗi chúng ta cần nâng cao ý thức, có hành động thiết thực, chung tay vì một Trái Đất xanh, sạch, đẹp.

Câu 2:

Bài Làm

Trong dòng chảy văn học trung đại Việt Nam, hình tượng người ẩn sĩ — những con người sống thanh nhàn, thoát tục — được khắc họa sinh động qua nhiều tác phẩm. Hai bài thơ “Nhàn” của Nguyễn Bỉnh Khiêm và bài thơ thu của Nguyễn Khuyến đều thể hiện vẻ đẹp này, tuy cùng chủ đề nhưng mỗi tác phẩm lại mang sắc thái riêng biệt, thể hiện tâm thế khác nhau của người ẩn sĩ.

Trong bài thơ “Nhàn”, Nguyễn Bỉnh Khiêm xây dựng hình ảnh một ẩn sĩ chủ động tìm kiếm cuộc sống thanh nhàn, hòa mình với thiên nhiên. Những hình ảnh “một mai, một cuốc, một cần câu” giản dị, mộc mạc thể hiện cuộc sống tự cung tự cấp, gần gũi với đất trời. Tác giả đối lập giữa “ta dại” và “người khôn”, để khẳng định sự lựa chọn sống xa rời chốn danh lợi, “nơi vắng vẻ” để tìm lấy sự an nhiên. Các hoạt động hằng ngày như ăn măng trúc, tắm hồ sen, uống rượu dưới bóng cây… cho thấy niềm vui trọn vẹn trong cuộc sống thanh bần mà đầy tự do, không vướng bận bon chen. Hình tượng ẩn sĩ ở đây mang vẻ đẹp của sự chủ động, tự tại, coi thường phù hoa phú quý, nhận thức sâu sắc tính vô thường của cuộc đời.

Ngược lại, trong bài thơ của Nguyễn Khuyến, hình ảnh người ẩn sĩ lại nhuốm màu sắc buồn vời vợi của mùa thu. Không gian được miêu tả “trời thu xanh ngắt”, “cần trúc lơ phơ”, “nước biếc” và “bóng trăng” gợi một khung cảnh vừa trong trẻo vừa hiu hắt. Người ẩn sĩ như chìm đắm trong cảnh sắc thiên nhiên mà lòng chất chứa nỗi niềm cô đơn, tiếc nuối. Khi “toan cất bút” nhưng “lại thẹn với ông Đào” (Đào Tiềm – biểu tượng cho chí thanh cao), Nguyễn Khuyến đã thể hiện một tâm trạng vừa kính trọng, vừa tự cảm thấy chưa đạt đến sự thanh thản tuyệt đối của bậc ẩn sĩ lý tưởng. Ẩn sĩ trong thơ ông mang nét trầm tư, sâu lắng hơn, phản ánh tâm sự của một trí thức buồn vì thời thế, lánh đời nhưng không nguôi canh cánh nỗi niềm với vận nước.

Như vậy, cùng nói về hình tượng người ẩn sĩ, Nguyễn Bỉnh Khiêm nhấn mạnh vẻ đẹp ung dung tự tại, sự lựa chọn dứt khoát, còn Nguyễn Khuyến lại khắc họa tâm thế trăn trở, ưu tư trong sự ẩn dật. Một người chọn lánh đời với tâm thế thảnh thơi, một người lánh đời mà lòng vẫn chưa nguôi nỗi ưu hoài.

Dù mang sắc thái khác nhau, cả hai bài thơ đều thể hiện vẻ đẹp tâm hồn thanh cao, tình yêu thiên nhiên và thái độ coi thường danh lợi. Qua đó, ta cảm nhận được vẻ đẹp tinh thần truyền thống của người trí thức xưa: yêu tự do, sống chan hòa với thiên nhiên, hướng tới những giá trị tinh thần vĩnh cửu.

Câu 1.

Hiện tượng tiếc thương sinh thái là nỗi đau khổ của con người trước những mất mát về sinh thái do biến đổi khí hậu gây ra, khiến tâm trí phản ứng như khi mất người thân.


Câu 2.

Bài viết trình bày thông tin theo trình tự: nêu hiện tượng → định nghĩa khái niệm → đưa dẫn chứng thực tế → phân tích tác động tâm lí → mở rộng phạm vi ảnh hưởng.


Câu 3.

Tác giả sử dụng các bằng chứng như: nghiên cứu của Ashlee Cunsolo và Neville R. Ellis; tình trạng người Inuit và người trồng trọt Australia; sự kiện rừng Amazon cháy năm 2019; khảo sát của Caroline Hickman năm 2021.


Câu 4.

Tác giả tiếp cận vấn đề biến đổi khí hậu dưới góc độ tâm lí – tinh thần, tập trung khai thác cảm xúc tiếc thương sinh thái của con người trước những tổn thất môi trường.


Câu 5.

Thông điệp sâu sắc nhất là: Biến đổi khí hậu không chỉ gây ra thiệt hại vật chất mà còn để lại những tổn thương sâu sắc về tinh thần, đòi hỏi con người phải nhận thức rõ hơn và hành động cấp bách để bảo vệ môi trường.


Câu 1:

Bài làm :

Bài thơ "Ca sợi chỉ" của Hồ Chí Minh là một bài thơ ngắn nhưng hàm chứa nhiều ý nghĩa sâu sắc. Hình ảnh sợi chỉ nhỏ bé, đơn giản được nhà thơ sử dụng để biểu trưng cho sự bền bỉ, kiên trì và sức mạnh của sự đoàn kết. Mỗi sợi chỉ tuy nhỏ yếu, dễ đứt gãy, nhưng khi được kết hợp lại với nhau, chúng tạo thành một tấm vải vững chắc, biểu tượng cho sức mạnh tập thể. Sự kết hợp hài hòa giữa các sợi chỉ khác nhau về màu sắc, chất liệu cũng thể hiện sự đa dạng, thống nhất trong khối đại đoàn kết dân tộc. Thông qua bài thơ, Bác Hồ khéo léo gửi gắm thông điệp về tầm quan trọng của tinh thần đoàn kết, sự hợp lực để vượt qua khó khăn, thử thách, xây dựng đất nước. Bài thơ không chỉ có giá trị về mặt nghệ thuật với ngôn từ giản dị, hình ảnh gần gũi mà còn mang ý nghĩa giáo dục sâu sắc, khơi dậy tinh thần yêu nước, ý thức cộng đồng trong mỗi người dân. Sự giản dị, tinh tế trong cách thể hiện càng làm nổi bật chủ đề chính của bài thơ, góp phần truyền tải thông điệp một cách hiệu quả.

Câu 2:

Bài làm :

Sự đoàn kết là một trong những yếu tố quan trọng nhất góp phần vào sự thành công và phát triển của bất kỳ cộng đồng hay quốc gia nào. Nó là sợi dây liên kết, gắn bó mọi người lại với nhau, tạo nên sức mạnh tổng hợp vượt trội hơn nhiều so với tổng sức mạnh cá nhân. Trong lịch sử, biết bao nhiêu chiến thắng vẻ vang, bao nhiêu công trình vĩ đại đã được tạo nên nhờ tinh thần đoàn kết, tương trợ lẫn nhau.

Đoàn kết không chỉ thể hiện trong những thời khắc khó khăn, thử thách mà còn là nền tảng vững chắc cho sự phát triển bền vững. Trong một xã hội đoàn kết, mọi người cùng chung tay góp sức, chia sẻ khó khăn, hỗ trợ lẫn nhau để cùng nhau tiến lên. Sự hợp tác giữa các cá nhân, tổ chức sẽ tạo ra hiệu quả cao hơn, thúc đẩy sự đổi mới, sáng tạo và phát triển kinh tế - xã hội. Một đất nước đoàn kết sẽ có sức mạnh tổng hợp lớn, dễ dàng vượt qua những thách thức và hội nhập quốc tế thành công.

Trong thời đại toàn cầu hóa hiện nay, sự đoàn kết càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Trước những thách thức toàn cầu như biến đổi khí hậu, khủng hoảng kinh tế, đại dịch… chỉ có sự hợp tác quốc tế, sự đoàn kết giữa các quốc gia mới có thể tìm ra giải pháp hiệu quả. Đoàn kết không chỉ là trách nhiệm của các chính phủ, tổ chức quốc tế mà còn là trách nhiệm của mỗi cá nhân. Mỗi người cần có ý thức đóng góp cho cộng đồng, chia sẻ với những người khó khăn, cùng nhau xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn.

Có thể thấy sự đoàn kết là một giá trị nhân văn cao đẹp, là nền tảng cho sự phát triển bền vững của xã hội. Tinh thần đoàn kết cần được gìn giữ và phát huy mạnh mẽ hơn nữa trong mọi lĩnh vực của đời sống, từ gia đình, cộng đồng đến quốc gia và toàn thế giới. Chỉ có sự đoàn kết mới mang lại sức mạnh, sự thịnh vượng và hạnh phúc cho nhân loại.

câu 1: phương thức biểu đạt chính được sử dụng tronh bài thơ là : biểu cảm

câu 2: Nhân vật “tôi” trong bài thơ đã trở thành sợi chỉ từ một bông hoa. Bài thơ có câu: "Mẹ tôi là một đoá hoa,/ Thân tôi trong sạch, tôi là cái bông."

câu 3: Biện pháp tu từ chính trong đoạn thơ là ẩn dụ. Tác giả sử dụng hình ảnh “sợi dọc, sợi ngang”, “tấm vải”, “lực lượng”, “vẻ vang” để nói về sự đoàn kết, thống nhất của nhân dân. “Sợi chỉ” tượng trưng cho mỗi cá nhân, khi kết hợp lại tạo nên sức mạnh to lớn, bền chặt hơn cả lụa và da. Tác dụng làm cho bài thơ trở nên sâu sắc, giàu hình ảnh và dễ hiểu.

Câu 4: Sợi chỉ trong bài thơ có những đặc tính: nhỏ bé, mỏng manh, dễ bị bứt xé khi đơn lẻ. Tuy nhiên, khi được kết hợp lại với nhau, chúng tạo nên một tổng thể vững chắc, bền bỉ, khó có thể phá vỡ. Sức mạnh của sợi chỉ nằm ở sự đoàn kết, thống nhất của chúng. Chính sự kết hợp này tạo nên sức mạnh tập thể, vượt trội hơn nhiều so với sức mạnh của từng sợi chỉ riêng lẻ.

Câu 5: Bài học ý nghĩa nhất từ bài thơ là về sức mạnh của đoàn kết, thống nhất. Bài thơ cho thấy rằng, dù mỗi cá nhân nhỏ bé, yếu ớt, nhưng khi cùng nhau đoàn kết, chung sức, họ sẽ tạo nên một sức mạnh to lớn, khó ai có thể đánh bại. Đây là bài học quý giá về tinh thần tập thể và ý nghĩa của sự hợp lực trong cuộc sống.