Hoàng Trần Thùy Trang

Giới thiệu về bản thân

Chào mừng bạn đến với trang cá nhân của Hoàng Trần Thùy Trang
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
(Thường được cập nhật sau 1 giờ!)

Khi mắc nối tiếp thì Q1=Q2=Q3→C1U1=C2U2=C3U3 Vì C1<C2<C3→U1>U2>U3C1​<C2​<C3​→U1​>U2​>U3​ nên: U1=Ugh=500 V; U2=C1U1/C2=2×10^−9×500 / 4×10^−9 ​=250 V U3=C1U1/C3=2×10^−9×500 / 6×10^−9 ​=166,67 V Hiệu điện thế giới hạn của bộ tụ là U=U1+U2+U3=500+250+166,67=916,67<1100 Vì vậy, bộ tụ không thể chịu được hiệu điện thế 1100 V.

a) Hiệu điện thế UMN là: UMN=AMN/q=(AM∞−AN∞)/q=(−q×Q/4πε0rM+q×Q/4πε0rN)/q →UMN=−Q/4πε0×1+Q/4πε0×2=−8πε0​Q​ V

b) Công cần thực hiện là: AMN=AM∞−AN∞=−A∞M−(−A∞N)=−q×Q/4πε0rM−(−q×Q/4πε0rN) AMN=−q×Q/4πε0×1+q×Q/4πε0×2=(1,6×10^−29)/πε0​ J

Công của lực điện trường là A = qEd = − eEd = ΔW Công của lực điện trường bằng độ biến thiên động năng. Theo định lí biến thiên động năng, ta có: A= 0 − 1/2×mv^2 = − eEd → d = mv^2 / 2eE → d=9,1×10^−31×(3×10^5)^2 / 2×1,6×10^−19×1000 = 2,6×10^-4m = 0,26 mm

CH3​COOH+(CH3​)2​CHCH2​CH2​OH⇌( H2​SO4đ,​t° )CH3​COOCH2​CH2​CH(CH3​)2​+H2​O

Số mol isoamylic alcohol: n(CH3)2CHCH2CH2OH = 2,2/88 = 0,25 mol Số mol acetic acid: nCH3COOH = 2,2/60 = 0,037 mol Vì phản ứng xảy ra theo tỉ lệ 1 : 1, nisoamylic acohol < nacetic acid nên ta tính khối lượng ester tạo ra theo số mol của isoamylic acid. Theo phương trình phản ứng: nester = nalcohol = 0,025 nester​ = nalcohol​ = 0,025 mol Hiệu suất phản ứng là 70% nên khối lượng ester thu được thực tế: mester = nester .Mester = 0,025.130.70% = 2,275 gam.

2 đơn vị uống chuẩn ứng với số gam cồn nguyên chất là 2.10 = 20 gam. Thể tích ethanol: VC2H5OH = m/D = 20/0,8 = 25 mL Nếu dùng loại rượu có độ cồn 36% thì thể tích tương ứng của loại này để chứa 2 đơn vị cồn: Vrượu = 2500/36 = 69,4 mL Vậy thể tích rượu 36% tương ứng với 2 đơn vị cồn là 69,4 mL.

* CH3​CH2​CH2​CH2​CHO →(NaBH4​) CH3​CH2​CH2​CH2​CH2​OH

* CH3CH2CH(CH3)CHO → (NaBH4) CH3CH2CH(CH3)CH2OH

* CH3CH(CH3)CH2CHO →(NaBH4) CH3CH(CH3)CH2CH2OH

* CH3C(CH3)2CHO → (NaBH4) CH3C(CH3)2CH2OH


Câu 1:

Người đọc đến với Thạch Lam, họ quên và hầu như không cần thiết xem ông là nhà văn lãng mạn hay hiện thực mà điều hấp dẫn đối với họ là toàn bộ bức tranh nhân gian của ông với sự hiện diện của đủ mọi hạng người, đặc biệt là những con người nghèo khổ. Với ý nghĩa ấy, chúng tôi chỉ xin nêu ra một đặc điểm nổi bật trong thi pháp truyện ngắn của Thạch Lam. Đó là đặc điểm không gian nghệ thuật - một mặt quan trọng để nhà văn thể hiện tư tưởng và quan niệm nghệ thuật về con người. Có thể thấy hầu hết truyện ngắn của Thạch Lam đều sử dụng không gian hiện thực hằng ngày làm môi trường cho nhân vật hoạt động. Nhưng không gian hiện thực ở đây được bó hẹp lại trong không gian đời tư, không gian cá nhân chứ không phải trong không gian xã hội rộng lớn, nên không gian càng dồn nén, thu nhỏ, đông lại, càng hiu hắt hơn. Chính không gian hẹp đó, nhân vật bộc lộ bản chất, hành vi, suy nghĩ của mình một cách cụ thể, chân thật nhất-và khi họ thấy bất lực trước hoàn cảnh thì lập tức ngôn ngữ độc thoại, ngôn ngữ giấc mơ hiện ra, khi ấy không gian hồi tưởng xuất hiện. Không gian hẹp mà Thạch Lam quan tâm miêu tả giúp cho nhân vật tự vấn, tự ý thức để đối chiếu, so sánh niềm vui, nỗi buồn của mình trong từng thời gian một cách cụ thể. Dung (truyện ngắn “Hai lần chết”) hiểu rõ nỗi bất hạnh của mình, cứ sau mỗi lần vùng vẫy, ước mơ thì lại bị nhấn chìm xuống đáy, nhưng khổ nỗi, không thể chết được, dù toại nguyện mà lại cứ phải sống trong buồn đau, trói buộc. Bi kịch của Dung trong truyện ngắn "Hai lần chết" càng bi kịch hơn dẫu nàng đã quyết định kết liễu cuộc đời để được giải thoát. Nhưng có được đâu, nước mắt tủi buồn lăn trên má khi “Dung ngậm ngùi nghĩ đến cái chết của mình. Lần này, về nhà chồng, mới hẳn là chết đuối, chết không bấu víu vào đâu được”. Thạch Lam là nhà văn nhân đạo chủ nghĩa. Ông không thể không an ủi và mong muốn con người được sung sướng và hạnh phúc. Lòng nhân ái ấy bàng bạc trong tác phẩm của ông, hé ra một chút ánh sáng và hy vọng cho con người, dù mong manh. Đó là điều mà Thạch Lam hằng tâm niệm: “Văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có thể vừa tố cáo và thay đổi một cái thế giới giả dối và tàn ác, vừa làm cho lòng người được thêm trong sạch và phong phú hơn”.

Câu 2:

Trong xã hội hiện đại, việc áp đặt con cái trong hôn nhân bởi cha mẹ vẫn còn là một vấn đề nhức nhối. Nhiều bậc phụ huynh vẫn còn quan niệm rằng, họ có quyền quyết định tương lai của con cái mình, đặc biệt là trong vấn đề hôn nhân. Tuy nhiên, liệu việc áp đặt này có thực sự mang lại hạnh phúc cho con cái hay không? Trước hết, chúng ta cần hiểu rằng hôn nhân là một quyết định quan trọng trong cuộc đời mỗi người. Đó không chỉ là việc gắn kết hai người mà còn liên quan đến cả gia đình và tương lai sau này. Vì vậy, quyết định này nên được dựa trên sự tự nguyện và tình yêu giữa hai người, chứ không phải là áp đặt từ bên ngoài. Tuy nhiên, nhiều bậc phụ huynh vẫn còn quan niệm rằng, con cái cần phải nghe theo ý kiến của mình trong vấn đề hôn nhân. Họ cho rằng, việc chọn người yêu hay lấy chồng/vợ là một việc lớn trong đời, và con cái không đủ kinh nghiệm để tự quyết định. Họ muốn con cái mình lấy người có điều kiện tốt, có địa vị xã hội cao, hoặc có gia thế tốt để đảm bảo cuộc sống sau này của con cái. Nhưng liệu việc áp đặt này có thực sự mang lại hạnh phúc cho con cái? Câu trả lời là không. Khi con cái bị áp đặt trong hôn nhân, họ sẽ cảm thấy không có quyền tự quyết định cuộc đời mình. Họ sẽ cảm thấy bị gò bó, bị ép buộc vào một cuộc sống mà họ không mong muốn. Điều này sẽ dẫn đến sự bất hạnh và mâu thuẫn trong cuộc sống hôn nhân. Hơn nữa, việc áp đặt trong hôn nhân còn có thể dẫn đến sự tan vỡ của hôn nhân. Khi hai người không yêu nhau thực sự, không có sự đồng cảm và hiểu biết về nhau, cuộc sống hôn nhân sẽ trở nên khó khăn và áp lực. Điều này sẽ ảnh hưởng đến cả hai người và cả gia đình. Vậy, làm thế nào để giải quyết vấn đề này? Trước hết, cha mẹ cần thay đổi quan niệm về hôn nhân và quyền tự quyết của con cái. Cha mẹ cần hiểu rằng, con cái mình đã trưởng thành và có quyền tự quyết định cuộc đời mình. Cha mẹ nên đóng vai trò là người tư vấn, người bạn đồng hành cùng con cái, chứ không phải là người quyết định. Thứ hai, con cái cần có sự tự tin và độc lập trong việc quyết định cuộc đời mình. Con cái cần hiểu rằng, hôn nhân là một quyết định quan trọng và cần được dựa trên sự tự nguyện và tình yêu. Con cái cần có sự can đảm để nói không với việc áp đặt và quyết định cuộc đời mình.

Cuối cùng, xã hội cần có sự thay đổi trong quan niệm về hôn nhân và quyền tự quyết của con người. Xã hội cần chấp nhận và tôn trọng quyết định của mỗi người về hôn nhân và cuộc sống. Xã hội cần tạo điều kiện cho con người có thể tự quyết định cuộc đời mình và sống cuộc sống hạnh phúc. Tóm lại, việc áp đặt con cái trong hôn nhân bởi cha mẹ là một vấn đề cần được thay đổi. Cha mẹ cần tôn trọng quyền tự quyết của con cái và đóng vai trò là người tư vấn, người bạn đồng hành cùng con cái. Con cái cần có sự tự tin và độc lập trong việc quyết định cuộc đời mình. Xã hội cần chấp nhận và tôn trọng quyết định của mỗi người về hôn nhân và cuộc sống. Chỉ khi đó, con người mới có thể sống cuộc sống hạnh phúc và thực sự.

Câu 1: Văn bản trên thuộc thể loại truyện ngắn.

Câu 2:

Đề tài của văn bản là số phận đau khổ của người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Tác phẩm tập trung phản ánh cảnh đời khổ cực, tủi nhục của nhân vật Dung, từ khi sống tại nhà cha mẹ cho đến khi kết hôn và chịu cảnh áp bức từ nhà chồng.

Câu 3: Nhận xét về sự kết nối giữa lời người kể chuyện và lời nhân vật trong văn bản. - Văn bản sử dụng cách kể chuyện kết hợp giữa lời người kể chuyện và lời nhân vật, giúp làm nổi bật những cảm xúc và hoàn cảnh của nhân vật. - Người kể chuyện sử dụng ngôi thứ 3 - Lời nhân vật thể hiện nội tâm sâu sắc và nỗi tuyệt vọng của Dung, đặc biệt qua những phân đoạn độc thoại nội tâm. Sự kết nối này làm cho câu chuyện trở nên sinh động, gần gũi và đi sâu vào lòng người.

Câu 4: Đoạn trích cho thấy: - Nỗi đau đớn tột cùng và sự bế tắc của Dung: Trước dòng đời chảy trôi vô tận, Dung cảm nhận rằng mình không còn lối thoát. Hình bóng dòng sông gợi lên ý nghĩ về cái chết như một cách giải thoát khỏi cuộc đời đau khổ mà cô phải chịu. - Sự tuyệt vọng lớn lao: Trở về nhà chồng, Dung nhận ra rằng cuộc đời cô không khác gì "chết đuối giữa dòng sông", không còn một hi vọng hay bàn tay nào cứu vớt cô. Đây là ý nghĩa tượng trưng của dòng sông và cái chết.

Câu 5: Tác giả gửi gắm: - Tình thương cảm sâu sắc đối với những thân phận phụ nữ nhỏ bé, bất hạnh, như nhân vật Dung, trong xã hội phong kiến khắc nghiệt. - Lời tố cáo xã hội phong kiến đầy bất công, coi rẻ thân phận phụ nữ, khiến họ không có quyền tự quyết cuộc đời mà chỉ chịu đau khổ cả về tinh thần lẫn thể xác. - Đồng thời, tác phẩm khơi gợi trong lòng người đọc tình yêu thương, sự thấu hiểu và khát vọng về một xã hội bình đẳng và nhân đạo hơn.