

Nguyễn Minh Thiết
Giới thiệu về bản thân



































Câu 1:
Chiếu văn sử dụng lối lập luận chặt chẽ, logic, kết hợp hài hòa giữa lí lẽ và tình cảm. Tác giả bắt đầu bằng việc nêu rõ nguyên nhân sâu xa của việc cầu hiền: đất nước đang trong thời bình, cần người tài để xây dựng và phát triển. Đây là một luận điểm chính xác, dễ hiểu và được đặt ra một cách tự nhiên, không hề gượng ép.
Tiếp đó, Nguyễn Trãi sử dụng nhiều dẫn chứng lịch sử, điển tích để làm sáng tỏ luận điểm. Ông nhắc đến các bậc đế vương, danh tướng xưa nay đều trọng dụng hiền tài, từ đó khẳng định tầm quan trọng của việc tuyển chọn người tài. Việc sử dụng dẫn chứng không chỉ làm tăng tính thuyết phục mà còn thể hiện sự uyên bác, am hiểu sâu rộng của tác giả. Bên cạnh lí lẽ sắc bén, Chiếu văn còn thể hiện tình cảm chân thành, tha thiết của tác giả đối với nhân tài. Ông bày tỏ sự trân trọng, tôn kính đối với những người có tài năng, đức độ, sẵn sàng cống hiến cho đất nước. Sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa lí và tình đã tạo nên sức mạnh thuyết phục mãnh liệt của bài chiếu. Cuối cùng, Nguyễn Trãi đưa ra lời kêu gọi thiết tha, chân thành, khuyến khích mọi người có tài năng dâng hiến cho đất nước. Lời kêu gọi này không chỉ mang tính chất mệnh lệnh mà còn thể hiện sự tin tưởng, kỳ vọng của tác giả vào nhân tài. Nhờ sự kết hợp hài hòa giữa lí lẽ sắc bén, dẫn chứng thuyết phục và tình cảm chân thành, Chiếu cầu hiền tài đã trở thành một áng văn mẫu mực về nghệ thuật lập luận, góp phần quan trọng vào công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Sự thành công của bài chiếu nằm ở việc tác giả đã khéo léo vận dụng các phương pháp lập luận khác nhau, tạo nên một tổng thể thống nhất, chặt chẽ và vô cùng thuyết phục
Câu 2:
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng thể hiện sự nhận thức sâu sắc về vai trò của thế hệ trẻ trong quá trình xây dựng đất nước bằng câu nói: "Sự tươi đẹp của non sông Việt Nam, khả năng cạnh tranh với các cường quốc trên thế giới, và cả sự phát triển của đất nước chúng ta đều dựa vào phần lớn vào việc học tập và phấn đấu của các bạn trẻ." Thế hệ trẻ được xem là trụ cột quan trọng để đưa Việt Nam vươn lên trở thành một đất nước mạnh mẽ và phồn thịnh trên trường quốc tế.
Tuy nhiên, ngày nay, chúng ta đang đối mặt với một thực tế đáng buồn, đó là sự "chảy máu chất xám." Đơn giản, đây là hiện tượng khi một số lượng lớn các nhân tài trẻ và trí thức của Việt Nam quyết định định cư, làm việc tại nước ngoài thay vì quay về đóng góp cho quê hương. "Chất xám" ở đây đại diện cho trí tuệ, sự sáng tạo và năng lực của con người.Rất nhiều bạn trẻ và những tài năng xuất sắc của Việt Nam sau khi học tập ở nước ngoài quyết định ở lại đóng góp tài năng và sáng tạo để tạo ra giá trị vật chất cho cộng đồng nơi họ đang sinh sống, thay vì trở về quê hương. Tình trạng này dẫn đến sự "thất thoát" của những nguồn nhân lực xuất sắc và ảnh hưởng đến quá trình xây dựng và phát triển đất nước.Nguyên nhân của tình trạng chảy máu chất xám có thể được phân tích từ hai góc độ: góc độ cá nhân và góc độ cơ cấu xã hội. Từ góc độ cá nhân, nhiều người trẻ thích hưởng lợi từ môi trường làm việc tốt hơn và thu nhập cao hơn ở nước ngoài. Từ góc độ cơ cấu xã hội, Việt Nam vẫn đang phải đối mặt với sự phát triển kém cỏi so với các quốc gia tiên tiến, thiếu điều kiện và chế độ đãi ngộ không thực sự thúc đẩy sự phát triển của tài năng trong nước. Để giải quyết vấn đề này, chúng ta cần phải thực hiện các biện pháp như thu hút và giữ chân tài năng, tạo điều kiện làm việc hấp dẫn cho họ.
Bên cạnh đó, mỗi cá nhân cũng cần phát huy tình yêu đối với đất nước và tinh thần dân tộc, sẵn sàng đóng góp khả năng và sức lực để đưa Việt Nam tiến bước phía trước, thực hiện lời dạy của Bác Hồ và góp phần vào sự phát triển giàu đẹp của đất nước.
Câu 1: Phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong bài chiếu là nghị luận.
Câu 2: Chủ thể bài viết là vua Lê Lợi.
Câu 3: Mục đích chính của văn bản là kêu gọi các quan đại thần tiến cử nhân tài giúp nước. Những đường lối tiến cử người hiền tài được đề cập trong văn bản là: tiến cử người tài ở triều đình hoặc thôn dã, bất kể đã ra làm quan hay chưa; tiến cử người có tài văn võ, có thể trị dân coi quân; thưởng cho người tiến cử được người tài.
Câu 4: Để minh chứng cho luận điểm “khi có được nước rồi, việc đầu tiên vua cần làm là chọn người hiền tài về giúp cho đất nước”, người viết đã đưa ra dẫn chứng về các đời vua trước, khi có được hiền tài thì nước thịnh trị, ngược lại nếu không có hiền tài thì nước suy yếu. Người viết đã sử dụng dẫn chứng lịch sử, cụ thể là việc nêu tên các vị quan nổi tiếng trong lịch sử Hán Đường đã tiến cử được nhiều người tài giỏi, góp phần làm nên sự thịnh trị của đất nước. Cách nêu dẫn chứng của người viết rất cụ thể, rõ ràng, thuyết phục.
Câu 5: Thông qua văn bản, ta thấy chủ thể bài viết (Vua Lê Lợi) là người có tầm nhìn xa trông rộng, quan tâm đến việc tuyển chọn nhân tài, thể hiện sự khiêm nhường, cầu hiền, và có trách nhiệm với đất nước. Ông lo lắng cho vận mệnh đất nước, mong muốn tìm kiếm những người tài giỏi để giúp mình trị vì đất nước, đem lại sự thịnh trị cho dân chúng. Ông cũng là người trọng dụng nhân tài, sẵn sàng trọng thưởng cho những người có công tiến cử hiền tài.
Câu 1:
Lối sống chủ động là chìa khóa dẫn đến thành công và hạnh phúc trong cuộc sống hiện đại. Trong xã hội ngày nay, với nhịp sống hối hả và cạnh tranh khốc liệt, việc chủ động trong mọi khía cạnh là điều cần thiết. Chủ động không chỉ đơn thuần là hành động theo kế hoạch, mà còn là tư duy tích cực, sẵn sàng đương đầu với thách thức và nắm bắt cơ hội. Một người sống chủ động sẽ tự đặt ra mục tiêu, lên kế hoạch cụ thể, kiên trì thực hiện và luôn tìm cách cải thiện bản thân. Họ không bị động chờ đợi may mắn, mà chủ động tạo ra những điều kiện thuận lợi cho mình. Hơn nữa, lối sống chủ động giúp ta tránh được sự phụ thuộc, tăng cường khả năng thích ứng và giải quyết vấn đề một cách hiệu quả. Tóm lại, lối sống chủ động là yếu tố quan trọng góp phần xây dựng một cuộc sống ý nghĩa và thành đạt.
Câu 2:
Nguyễn Trãi (1380 – 1442) là một vị anh hùng tên tuổi lẫy lừng trong lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc ta, là một con người tài năng kiệt xuất. “Quốc âm thi tập” là một tác phẩm thơ Nôm vô cùng nổi tiếng của Nguyễn Trãi. Bài thơ Cảnh ngày hè là một trong những bài thơ tiêu biểu nhất trong tập thơ. Bài thơ là nơi mà tác giả đã gửi gắm mọi tư tưởng, tình cảm yêu đời, yêu thiên nhiên và ước vọng cao đẹp của mình
Bài thơ Cảnh ngày hè thể hiện vẻ đẹp độc đáo của bức tranh ngày hè và vẻ đẹp tâm hồn yêu thiên nhiên, yêu đời, yêu nhân dân, đất nước của Nguyễn Trãi. Bài thơ mang vẻ đẹp bình dị, tự nhiên, có sự đan xen câu lục ngôn và bài thơ thất ngôn. Mạch cảm xúc của bài thơ từ thư thái, thanh thản pha sắc thái bất đắc dĩ, có phần chán ngán đến hứng khởi, phấn chấn đó là mạch cảm xúc của Cảnh ngày hè.
Cảnh ngày hè hiện ra thật đẹp, đầy sức sống với những chi tiết cụ thể, sinh động: tán hoè xanh thẫm che rợp, thạch hựu bên hiên nhà còn phun màu đỏ, sen hồng trong ao ngát mùi hương, tiếng lao xao vọng lại từ làng chài, tiếng ve như tiếng đàn vang dội lên. Bức tranh cho thấy sức sống sinh sôi, rạo rực khắp nơi nơi.
Bức tranh ngày hè được hiện lên một cách nhàn tản nhưng vẫn sinh động và đầy sức sống. Cảnh sắc hè trước hết là bóng hòe, màn hòe. Lá hòe xanh thẫm, xanh lục. Cảnh hòe sum sê, um tùm, lá “đùn đùn” lên thành chùm, thành đám xanh tươi, tràn đầy sức sống:
“Rồi hóng mát thuở ngày trường.
Hòe lục đùn đùn tán rợp trương
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương”
Màu xanh của hòe, đỏ của lựu, sen hồng dưới ao.Tất cả hiện lên rực rỡ, màu sắc có sự hài hòa, tươi thắm. Ba loài cây với ba dáng vẻ khác nhau nhưng tất cả đều có hồn. Thiên nhiên ấy chứa chan bao cảm xúc, lúc dịu nhẹ lan tỏa lúc bừng bừng phun trào. Nguyễn Trãi đã chọn hòe, thạch lựu, sen hồng đưa vào thơ. Sen là biểu tượng cho cảnh sắc mùa hè làng quê ta. Sen trong ao làng đã “tiễn mùi hương” gợi không cảnh làng quê thanh bình, không khí thanh cao thoát tục. Cảnh sắc ấy vô cùng xinh đẹp và bình dị. Nhà thơ đã gắn tâm hồn mình với cảnh vật mùa hè bằng một tình quê đẹp và cảm nhận vẻ đẹp của nó bằng nhiều giác quan.
Giữa khung cảnh thiên nhiên ấy, nhà thơ để lòng mình hòa cùng thiên nhiên đầy sức sống. Nguyễn Trãi không chỉ nhìn bằng mắt mà còn trải lòng mình để lắng nghe âm thanh muôn vẻ của thiên nhiên:
"Lao xao chợ cá làng ngư phủ
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương”
Chợ là hình ảnh thái bình trong tiềm thức của người Việt. Chợ đông vui thì đất nước thái bình thịnh trị, dân giàu đủ.Nhà thơ lắng nghe nhịp sống đời thường ấy với bao niềm vui. “Lao xao” là từ láy tượng thanh gợi tả sự ồn ào, nhộn nhịp Cảnh vật yên vui bởi sự thanh thản đang xâm chiếm tâm hồn nhà thơ.Bức tranh thiên nhiên ấy đã thổi bùng lên trong ông khát vọng cháy bỏng:
“Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng
Dân giàu đủ khắp đòi phương”
Ngu cầm là cây đàn thần của Thuấn, vua Nghiêu, Thuấn là hai ông vua thời cổ đại Trung Quốc với triều đại lý trị vì lý tưởng nhân dân được sống trong hạnh phúc, thanh bình. Nguyễn Trãi mơ chiếc đàn của vua Thuấn để gảy khúc nam phong cho dân được ấm no hạnh phúc. Câu thơ 6 chữ kết thúc nhấn mạnh niềm ước mơ ấy. Ước mơ rất đỗi bình thường mà vĩ đại, lãng mạn mà thực tế. Nó thể hiện tư tưởng nhân nghĩa của ông. Lý tưởng dân giàu đủ khắp đòi phương của Nguyễn Trãi với hôm nay vẫn còn mang ý nghĩa thẩm mỹ. Câu kết cảm xúc trữ tình được diễn tả bằng một điển tích phản ánh khát vọng cao đẹp của nhà thơ.
Nguyễn Trãi là một con người kiệt xuất của dân tộc ta, cả cuộc đời ông là một cuộc hành trình dài, nhiều gian lao về lý tưởng lo cho dân, cho nước. Công trạng cũng nhiều, ông là người đã có những đóng góp to lớn trong lĩnh vực quân sự và nhiếp chính khi ông còn đương nhiệm làm quan. Một lòng một dạ trung quân, ái quốc, tấm lòng ấy có trời biết, đất biết, cũng rất được công nhận. Tuy nhiên, ông cũng phải chấp nhận lẽ đời mà ông không sao chống lại được. Cũng như bao con người trí thức, có tấm lòng biệt nhỡn liên tài nhưng không được trọng dụng, họ lại tìm đến những thú vui tao nhã điền viên – lâm tuyền để cân bằng lại cho mình những niềm tin, những hy vọng. Nguyễn Trãi cũng vậy, ông sớm nhận ra sự phù du của vòng danh lợi và rồi chọn cuộc sống ẩn dật, lánh đời, tự do tự tại, giúp tâm hồn có những khoảnh khắc thanh thản nhẹ nhàng lạ thường. Tuy nhiên, không phải ông đi lánh đờ là rũ bỏ hết trách nhiệm với đời mà ông vẫn quan tâm đến việc thế sự theo một cách rất riêng biệt.
Bài thơ miêu tả bức tranh ngày hè sinh động và tràn đầy sức sống. Sức sống của sự vật trong trong bức tranh tả cảnh mùa hè cũng thể hiện cảm xúc, niềm yêu đời trong tâm hồn nhà thơ.
Câu 1: Văn bản trên thuộc thể thơ thất ngôn tứ tuyệt.
Câu 2: Những hình ảnh nói về nét sinh hoạt hàng ngày đạm bạc, thanh cao của tác giả là: “Thu ăn măng trúc, đông ăn giá/ Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao”. Hình ảnh này thể hiện cuộc sống giản dị, hòa mình với thiên nhiên của tác giả.
Câu 3: Biện pháp tu từ liệt kê được sử dụng trong hai câu thơ: “Một mai, một cuốc, một cần câu/ Thơ thẩn dầu ai vui thú nào” là liệt kê những vật dụng đơn sơ, giản dị gắn liền với cuộc sống thanh đạm của nhà thơ. Tác dụng của biện pháp tu từ này là làm nổi bật sự giản dị, tự tại của cuộc sống mà tác giả đang hướng tới, đồng thời nhấn mạnh sự khác biệt giữa lối sống của tác giả với những người khác. Liệt kê ba vật dụng cụ thể, giản dị tạo nên một bức tranh sinh hoạt chân thực, gần gũi.
Câu 4: Quan niệm dại - khôn của tác giả trong hai câu thơ “Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ/ Người khôn, người đến chốn lao xao” rất đặc biệt. Tác giả coi sự “dại” là sự lựa chọn cuộc sống thanh tĩnh, tự tại, gần gũi với thiên nhiên, trái ngược với sự “khôn” – tham danh lợi, bon chen nơi chốn xô bồ. Đây là một quan niệm sống khác biệt, thể hiện sự tỉnh táo, lựa chọn lối sống phù hợp với bản thân.
Câu 5: Qua bài thơ, vẻ đẹp nhân cách của Nguyễn Bỉnh Khiêm hiện lên là một con người sống giản dị, thanh cao, không màng danh lợi. Ông tìm đến sự bình yên trong cuộc sống đạm bạc, tự tại, hòa mình với thiên nhiên. Ông không chạy theo phú quý, coi đó chỉ là phù du, tầm thường. Đó là một nhân cách đáng ngưỡng mộ, một tấm gương sáng về lối sống thanh bạch, không bị cám dỗ bởi vật chất. Ông thể hiện sự thông minh, sáng suốt khi lựa chọn lối sống phù hợp với mình, không chạy theo đám đông. Ông là người có tâm hồn thư thái, an nhiên.