Hoàng Thị Bảo Châu

Giới thiệu về bản thân

Chào mừng bạn đến với trang cá nhân của Hoàng Thị Bảo Châu
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
(Thường được cập nhật sau 1 giờ!)

a) Cân bằng phương trình phản ứng

5CaC2O4 + 2KMnO4 + 8H2SO4 → 5CaSO4 + K2SO4 + 2MnSO4 + 8H2O + 10CO2

 b) Số mol KMnO4 cần dùng để phản ứng hết với calcium oxalate kết tủa từ 1 mL máu là:

2,05.10-3.4,88.10-4 = 10-6 mol 

Số mol CaSO4 = 5/2. Số mol KMnO4 = 2,5x10-6 mol

Khối lượng ion calcium (mg) trong 100 mL máu là: 2,5x10-6x40x103x 100 = 10mg/100 mL.

 
 

Câu 1: 

Trong Chiếu cầu hiền, Nguyễn Trãi đã thể hiện nghệ thuật lập luận sắc sảo, thuyết phục nhằm kêu gọi nhân tài ra giúp nước.

Trước hết, tác giả sử dụng lối lập luận chặt chẽ, kết hợp lý lẽ và dẫn chứng cụ thể. Ông mở đầu bằng việc khẳng định vai trò quan trọng của hiền tài đối với đất nước, so sánh hiền tài như “nguyên khí quốc gia”, yếu tố quyết định sự hưng thịnh hay suy vong của triều đại. Nguyễn Trãi không chỉ nói chung chung mà còn dẫn chứng thực tế về các triều đại thịnh trị trong lịch sử, nhờ có nhân tài mà đất nước vững bền.

Bên cạnh đó, ông sử dụng nghệ thuật thuyết phục bằng tình cảm, bày tỏ sự chân thành của mình đối với hiền tài. Nguyễn Trãi thay mặt vua Lê Thái Tổ thể hiện tấm lòng trân trọng và khẩn thiết mời gọi người tài, sẵn sàng dành cho họ địa vị xứng đáng. Cách xưng hô khiêm nhường, lời lẽ mềm mỏng nhưng đầy sức nặng khiến hiền tài cảm động và suy nghĩ về trách nhiệm của mình.

Ngoài ra, ông còn sử dụng kết cấu lập luận logic, chặt chẽ: nêu vấn đề → phân tích tầm quan trọng của hiền tài → kêu gọi nhân tài ra giúp nước. Nhờ đó, bài chiếu không chỉ có giá trị chính trị mà còn thể hiện tư duy sắc bén và tâm huyết của Nguyễn Trãi đối với vận mệnh dân tộc.

Câu 2: 

Hiện tượng "chảy máu chất xám" đang trở thành một vấn đề đáng báo động tại Việt Nam, khi ngày càng nhiều nhân tài lựa chọn rời bỏ quê hương để tìm kiếm cơ hội phát triển tại nước ngoài. Đây không chỉ là bài toán nan giải đối với nền kinh tế mà còn ảnh hưởng sâu sắc đến sự phát triển bền vững của đất nước.

Trong những năm qua, số lượng du học sinh và lao động trí thức Việt Nam ở nước ngoài ngày càng tăng. Nhiều sinh viên giỏi sau khi hoàn thành chương trình học tại các quốc gia phát triển đã quyết định ở lại làm việc thay vì quay về đóng góp cho quê hương. Không chỉ sinh viên, ngay cả các nhà khoa học, kỹ sư, bác sĩ hay chuyên gia công nghệ cũng rời Việt Nam để tìm kiếm môi trường làm việc tốt hơn. Điều này dẫn đến tình trạng thiếu hụt nhân lực chất lượng cao trong nhiều lĩnh vực quan trọng.

Có nhiều nguyên nhân dẫn đến "chảy máu chất xám", trong đó nổi bật là môi trường làm việc trong nước chưa đủ hấp dẫn. Mức lương thấp, cơ hội thăng tiến hạn chế, cơ chế trọng dụng nhân tài chưa thực sự hiệu quả khiến nhiều người không cảm thấy được coi trọng. Ngoài ra, môi trường nghiên cứu khoa học, sáng tạo còn nhiều rào cản, thiếu đầu tư và chưa tạo điều kiện tối đa cho các nhà khoa học phát triển ý tưởng. Bên cạnh đó, một số người trẻ cảm thấy hệ thống làm việc cứng nhắc, ít đổi mới và chưa thực sự phát huy được năng lực của họ.

Tình trạng này để lại những hậu quả nghiêm trọng đối với đất nước. Trước hết, nó làm suy giảm nguồn nhân lực chất lượng cao, khiến Việt Nam khó cạnh tranh với các nước khác trong bối cảnh toàn cầu hóa. Những ngành công nghệ cao, nghiên cứu khoa học, y tế hay giáo dục cần những con người xuất sắc, nhưng khi nhân tài rời đi, đất nước mất đi nguồn lực quý báu. Bên cạnh đó, nền kinh tế bị ảnh hưởng khi các doanh nghiệp thiếu lao động có chuyên môn cao để phát triển. Về lâu dài, nếu không có chính sách giữ chân nhân tài, Việt Nam có thể bị tụt hậu so với các nước trong khu vực.

Để giải quyết vấn đề này, Việt Nam cần có những chính sách mạnh mẽ và hiệu quả hơn. Trước tiên, cần cải thiện môi trường làm việc trong nước, tạo điều kiện để người tài có thể phát huy hết khả năng. Nhà nước và doanh nghiệp cần tăng mức lương, chế độ đãi ngộ và cơ hội phát triển cho những người có chuyên môn cao. Đồng thời, đầu tư mạnh mẽ hơn vào khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo để thu hút nhân tài. Ngoài ra, cần có chính sách hỗ trợ những người Việt ở nước ngoài quay về cống hiến, tạo điều kiện để họ dễ dàng hòa nhập với thị trường trong nước.

"Chảy máu chất xám" là một vấn đề không thể xem nhẹ, đòi hỏi sự vào cuộc của toàn xã hội. Giữ chân và trọng dụng nhân tài không chỉ là trách nhiệm của nhà nước mà còn của các doanh nghiệp, tổ chức và từng cá nhân. Mỗi người trẻ cũng cần nhìn nhận lại trách nhiệm của mình đối với đất nước, thay vì chỉ chạy theo những cơ hội ở nước ngoài. Khi quê hương thực sự trở thành nơi đáng sống, đáng làm việc, chắc chắn người tài sẽ quay về và góp phần xây dựng một Việt Nam phát triển mạnh mẽ.

 

Câu 1

- Phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong bài là: Nghị luận.

Câu 2

- Chủ thể bài viết là Lê Lợi.

Câu 3 

- Mục đích chính của văn bản: Chiêu dụ người tài đức về giúp việc triều chính. 

- Các đường lối tiến cử hiền tài: 

+ Các đại thần từ tam phẩm trở lên, mỗi người đều cử một người tài.

+ Nếu cử được người trung tài thì thăng chức hai bực, nếu cử được người tài đức đều hơn người tột bực, tất được trọng thưởng.

Câu 4 

- Người viết đã đưa ra các dẫn chứng sau:

+ Thời xưa, dưới không sót nhân tài, trên không bỏ công việc, nên triều đại thịnh trị.

+ Các quan đời Hán Đường tiến cử người tài giúp nước, như Tiêu Hà tiến Tào Tham, Nguy Vô Tri tiến Trần Bình, Địch Nhân Kiệt tiến Trương Cửu Linh, Tiêu Tung tiến Hàn Hưu, tuy tài phẩm có cao thấp khác nhau, nhưng tất thảy đều được người để đảm đang nhiệm vụ.

- Nhận xét

+ Dẫn chứng được đưa ra phong phú, toàn diện, sắc sảo, từ cổ chí kim, từ gần tới xa.

+ Dẫn chứng hợp lí, xác đáng, là những chuyện có thực, đủ để minh chứng cho luận điểm một triều đại thịnh trị cần có người tài làm căn cơ.

- Mục đích chính của văn bản: Chiêu dụ người tài đức về giúp việc triều chính. (0.25 điểm)

- Các đường lối tiến cử hiền tài: (0.75 điểm)

+ Các đại thần từ tam phẩm trở lên, mỗi người đều cử một người tài.

+ Nếu cử được người trung tài thì thăng chức hai bực, nếu cử được người tài đức đều hơn người tột bực, tất được trọng thưởng.

+ Người có tài đức có thể tự tiến cử.

Câu 5

- Chủ thể bài viết có những phẩm chất sau:

+ Trọng người tài.

+ Khiêm nhường, biết lắng nghe ý kiến của dân, lấy dân làm trọng.

+ Anh minh, đưa ra được những chính sách sáng suốt vì dân vì nước.

Câu 1 : 

Lối sống chủ động là thái độ sống tích cực, không chờ đợi mà biết nắm bắt cơ hội, tự quyết định và chịu trách nhiệm với cuộc đời mình. Trong xã hội hiện đại đầy biến động, lối sống này ngày càng trở nên quan trọng.

Trước hết, sống chủ động giúp con người phát triển bản thân một cách toàn diện. Khi chủ động học hỏi, rèn luyện kỹ năng, chúng ta sẽ không bị phụ thuộc vào hoàn cảnh mà luôn sẵn sàng thích nghi với những thay đổi. Hơn nữa, chủ động giúp con người kiểm soát cuộc sống, giảm thiểu rủi ro và không bị động trước khó khăn. Người có tinh thần chủ động không ngồi chờ may mắn mà tự tạo ra cơ hội cho bản thân, nhờ đó dễ đạt được thành công.

Ngoài ra, lối sống chủ động còn giúp con người có tinh thần lạc quan, sáng tạo và không ngừng vươn lên. Thay vì lo lắng về tương lai, họ biết đặt mục tiêu rõ ràng và hành động để hiện thực hóa ước mơ. Nhìn vào những doanh nhân, nhà khoa học thành công, ta đều thấy họ là những người dám nghĩ, dám làm, không ngại thử thách.

Vì vậy, mỗi người cần rèn luyện lối sống chủ động bằng cách mạnh dạn thử thách bản thân, chủ động học hỏi và không ngại đổi mới. Chỉ khi làm chủ cuộc sống, chúng ta mới thực sự có thể tiến xa và chạm tới thành công.

Câu 2 :

Bài thơ "Bảo kính cảnh giới" (bài 43) của Nguyễn Trãi là một bức tranh thiên nhiên mùa hè đầy sống động, đồng thời thể hiện tư tưởng nhân nghĩa và khát vọng về cuộc sống thái bình của tác giả.

Bài thơ mở ra với không gian thoáng đãng của buổi chiều hè: “Rồi hóng mát thuở ngày trường.” Câu thơ gợi cảm giác thư thái, thanh thản của một con người hòa mình vào thiên nhiên. Các hình ảnh tiếp theo như “Hoè lục đùn đùn tán rợp trương”, “Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ”, “Hồng liên trì đã tịn mùi hương” vẽ nên một bức tranh mùa hè tràn đầy sức sống với màu sắc rực rỡ của cây hoè, thạch lựu và hoa sen.

Không chỉ có thiên nhiên, bài thơ còn phản ánh cuộc sống lao động bình dị, yên vui của con người qua hình ảnh “Lao xao chợ cá làng ngư phủ”, “Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương.” Cảnh sinh hoạt nhộn nhịp nơi chợ cá kết hợp với tiếng ve râm ran lúc chiều tà tạo nên bầu không khí hài hòa giữa con người và thiên nhiên. Đặc biệt, hai câu kết “Lẽ có Ngu cầm đàn một tiếng, Dân giàu đủ khắp đòi phương” thể hiện ước mơ của Nguyễn Trãi về một xã hội thái bình, nơi nhân dân no đủ, hạnh phúc.

Bài thơ không chỉ là một bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp mà còn chứa đựng tư tưởng nhân nghĩa sâu sắc của Nguyễn Trãi. Qua đó, ta cảm nhận được tình yêu thiên nhiên, yêu con người và khát vọng dựng xây một đất nước thịnh vượng của ông.

4o
Câu 1. Thể thơ: thất ngôn bát cú Đường luật.

 Câu 2. Những hình ảnh nói về nét sinh hoạt hàng ngày đạm bạc, thanh cao của tác giả: ăn măng trúc, ăn giá, tắm hồ sen, tắm ao.

Câu 3:

– Biện pháp tu từ liệt kê: Một mai, một cuốc, một cần câu.

– Tác dụng:

+ Tạo sự cân xứng, nhịp nhàng, hài hòa cho lời thơ.

+ Nhấn mạnh: sự lựa chọn phương châm sống, cách ứng xử của tác giả – chọn lối sống tĩnh tại, an nhàn; vừa thể hiện sắc thái trào lộng, mỉa mai đối với cách sống ham danh vọng, phú quý…

Câu 4:

Quan niệm khôn – dại của tác giả:

– Dại: “tìm nơi vắng vẻ” – nơi tĩnh tại của thiên nhiên, thảnh thơi của tâm hồn.

– Khôn: “đến chốn lao xao” – chốn cửa quyền bon chen, thủ đoạn sát phạt.

=> Đó là một cách nói ngược: khôn mà khôn dại, dại mà dại khôn của tác giả.

=>Thái độ tự tin vào sự lựa chọn của bản thân và hóm hỉnh mỉa mai quan niệm sống bon chen của thiên hạ.

Câu 5:

Nguyễn Bỉnh Khiêm là một người có nhân cách cao đẹp, thanh bạch và trí tuệ uyên thâm. Ông chọn lối sống nhàn, hòa hợp với thiên nhiên, không màng công danh phú quý. Qua bài thơ, ta cảm nhận được một con người biết đủ, biết hài lòng với cuộc sống giản dị, xem vinh hoa như giấc chiêm bao. Nhân cách của ông thể hiện tinh thần triết lý sống sâu sắc, có giá trị lâu bền.

Câu 1:

Nhân vật Bê-li-cốp trong đoạn trích Người trong bao của Sê-khốp là một điển hình cho lối sống khép kín, bảo thủ và sợ hãi. Ngay từ hình dáng bên ngoài, Bê-li-cốp đã gợi lên sự tù túng khi luôn bao bọc mình trong những lớp vỏ vật chất như áo bành tô, giày cao su, ô che, kính râm… Không chỉ vậy, tư tưởng và suy nghĩ của ông ta cũng bị “đóng bao”, chỉ dựa vào các chỉ thị, thông tư, cấm đoán để hành động. Lối sống này khiến Bê-li-cốp trở thành một con người xa rời thực tại, luôn hoài niệm quá khứ, trốn tránh mọi sự đổi thay. Đáng sợ hơn, nỗi ám ảnh về khuôn khổ của ông ta đã tác động tiêu cực đến cả cộng đồng, khiến mọi người xung quanh cũng trở nên e dè, sợ hãi. Qua hình tượng nhân vật này, Sê-khốp không chỉ phê phán lối sống tù túng, bảo thủ mà còn cảnh báo về những “cái bao” vô hình trong xã hội, thứ có thể kìm hãm sự phát triển của cá nhân và cộng đồng. Tác phẩm khuyến khích con người mạnh dạn bước ra khỏi những định kiến để sống một cuộc đời ý nghĩa hơn.

 

Câu 2 : 

Vùng an toàn là trạng thái tâm lý hoặc hoàn cảnh mà con người cảm thấy quen thuộc, ít phải đối mặt với thử thách và rủi ro. Tuy nhiên, nếu mãi ở trong đó, con người sẽ khó có cơ hội phát triển. Khi dám bước ra khỏi vùng an toàn, ta có thể khám phá những giới hạn mới của bản thân, học hỏi nhiều điều và trở nên mạnh mẽ hơn.

Việc rời khỏi vùng an toàn mang lại nhiều lợi ích thiết thực. Trước hết, con người có cơ hội phát triển bản thân, tích lũy kinh nghiệm và nâng cao kỹ năng sống. Không ai có thể giỏi hơn nếu chỉ lặp đi lặp lại những điều quen thuộc mà không thử thách chính mình. Bên cạnh đó, dám bước ra khỏi vùng an toàn sẽ mở ra những cơ hội mới, giúp ta gặp gỡ những con người mới, tiếp xúc với những ý tưởng sáng tạo hơn.

Ngược lại, nếu cứ mãi chần chừ, con người dễ bị trì trệ và đánh mất nhiều cơ hội quý giá. Sự sợ hãi thay đổi có thể khiến ta bỏ lỡ những bước ngoặt quan trọng trong cuộc đời, dẫn đến cảm giác tiếc nuối. Trong một xã hội không ngừng vận động, việc chấp nhận thử thách là điều tất yếu để không bị tụt hậu.

Thực tế cho thấy, những người thành công đều là những người dám bước ra khỏi vùng an toàn. Những doanh nhân như Elon Musk, Steve Jobs không ngại thử thách, chấp nhận rủi ro để tạo ra những phát minh vĩ đại. Nhiều bạn trẻ ngày nay cũng dũng cảm theo đuổi đam mê, từ bỏ những công việc ổn định để khám phá những điều mới mẻ.

Vì vậy, để phát triển toàn diện, mỗi người cần sẵn sàng đương đầu với thử thách, rèn luyện sự linh hoạt và không ngừng học hỏi. Dám bước ra khỏi vùng an toàn chính là chìa khóa giúp con người đạt được những thành tựu lớn lao trong cuộc sống

 
 
 

 

 

Câu 1 - Phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong bài là: Tự sự.

 

Câu 2 Nhân vật trung tâm của đoạn trích là Bê-li-cốp.

Câu 3 - Đoạn trích được kể theo ngôi thứ ba.

- Tác dụng:

+ Đảm bảo tính khách quan cho câu chuyện.

+ Kể chuyện một cách linh hoạt.

+ Giúp câu chuyện trở nên sinh động, hấp dẫn.

Câu 4 

- Những chi tiết miêu tả chân dung Bê-li-cốp:

Đi giày cao su, cầm ô, mặc áo bành tô ấm cốt bông. Ô hắn để trong bao, chiếc đồng hồ quả quýt cũng để trong bao bằng da hươu; và khi rút chiếc dao nhỏ để gọt bút chì thì chiếc dao ấy cũng đặt trong bao; cả bộ mặt hắn ta nữa dường như cũng ở trong bao vì lúc nào hắn cũng giấu mặt sau chiếc cổ áo bành tô bẻ đứng lên.

Hắn đeo kính râm, mặc áo bông chần, lỗ tai nhét bông.

- Nhan đề đoạn trích được đặt là Người trong bao vì:

+ Tất cả những đồ vật của Bê-li-cốp đều được đặt trong những cái bao kín.

+ Ngay cả chính bản thân Bê-li-cốp cũng tự ẩn mình vào trong những cái “bao”, cắt đi mọi giao cảm với đời.

+ Chiếc bao là ẩn dụ cho việc không dám bước ra khỏi vòng an toàn của mình.

Câu 5
Bài học rút ra từ đoạn trích:

  • Cần có lối sống cởi mở, tích cực, không nên tự giam mình trong những định kiến hay nỗi sợ vô hình.
  • Phải biết thay đổi, thích nghi với cuộc sống, không bảo thủ, lạc hậu như Bê-li-cốp.
  • Phê phán những tư tưởng khuôn mẫu, giáo điều khiến con người mất đi sự tự do và sáng tạo.
  • Cảnh báo về những “cái bao” vô hình trong xã hội – những tư tưởng áp đặt khiến con người sống thụ động, hèn nhát.