

Dương Thị Bích Hồng
Giới thiệu về bản thân



































Câu 1:
Chiếu cầu hiền của Ngô Thì Nhậm được ra đời sau khi Nguyễn Huệ lên ngôi, ông đã giao cho Ngô Thì Nhậm viết bài chiếu để chiêu mộ người có đức có tài ra phục vụ triều đình, giúp dân giúp nước. Thay tâm nguyện của nhà vua, Ngô Thì Nhậm đã thể hiện cho muôn dân thấy được tấm lòng vì dân vì nước của vua Quang Trung, cũng như sự hiểu biết, tầm nhìn xa trông rộng của vua Quang Trung.
Yêu cầu của một bài chiếu là rất cao, rất khắt khe, người viết phải am hiểu sâu sắc hoàn cảnh lịch sử xã hội, nắm được những đòi hỏi của đất nước lúc bấy giờ, dùng những lời lẽ để thuyết phục được lòng dân, khiến muôn dân tâm phục khẩu phục. Ngô Thì Nhậm là một người tài giỏi, có trình độ uyên thâm lỗi lạc, là người có tài thuyết phục lòng người. Tác phẩm Chiếu cầu hiền đã thể hiện một tài năng xuất sắc của tác giả vì cách lập luận chặt chẽ, lời lẽ rõ ràng, tao nhã.
Ngay từ những câu mở đầu của bài chiếu, với những lời lẽ sâu sắc, tác giả đã khiến lòng người phải nể phục.
"Từng nghe: Người hiền ở trên đời cũng như sao sáng trên trời. Sao tất phải chầu về Bắc thần (ý này của Khổng Tử trong sách Luận ngữ), người hiền tất phải do thiên tử sử dụng".
Tác giả đã thay mặt nhà vua mà khẳng định với muôn dân rằng, người hiền tài là những tài sản quí giá của đất nước, giống "như sao sáng trên trời", mà người tài tất phải ra giúp vua trị nước mới xứng với "ý trời" đã sinh ra. Cách so sánh đầy sáng tạo của tác giả đã làm tăng thêm ý nghĩa thuyết phục của bài Chiếu. Hình ảnh "sao sáng trên trời" tượng trưng cho sự tinh anh, khiến nhà vua rất lấy làm trân trọng.
Sau khi đã chỉ ra tầm quan trọng của người tài đối với vua, đối với dân với nước, tác giả lại đưa ra những khó khăn trong việc thu phục người tài ra giúp nước. Nếu không thu phục được hết người tài thì thật là phì hoài. "Trước đây, thời gấp vận dụng, trung châu lắm việc, người hiền ở ẩn, cố giữ tiết tháo như da bò bền, người ở triều đường không dám nói năng như hàng trượng mã. Cũng có người đánh mõ giữ cửa, ra bể vào sông, chết đuối trên cạn mà không tự biết, chỉ lo trốn tránh, hầu đến trọn đời". Nhà vua có ý muốn trách những người tài của đất nước. Nếu trong cảnh chiến sự thì việc quốc sự còn nhiều nhưng nay đất nước đã thái bình, nhà vua cần có sự hợp sức của nhân tài để quốc gia được phồn vinh, thịnh vượng hơn. Thế mà người hiền thì ở ẩn hoặc cố ý giữ lấy khí tiết của mình mà không để ý đến việc quốc gia đại sự. Hoặc có những người cũng ra giúp vua nhưng không tận tâm trong công việc. Tác giả viết: "Cũng có người giữ cửa, ra bể vào sông, chết đuối trên cạn mà không tự biết". Đây là cách phê phán nhẹ nhàng và tế nhị nhưng ẩn ở phía sau là những hàm ý rất thâm thúy.
Nhân tài là vật báu mà ông trời đã ban cho đất nước đó, vì vậy việc tập hợp người hiền tài giúp nước là công việc gấp gáp và quan trọng hơn lúc nào hết, nhà vua luôn "sớm hôm mong mỏi". Vua Quang Trung là một trong những vị vua anh minh của dân tộc, sau khi đã dẹp xong giặc, ông rất quan tâm đến đời sống của nhân dân. Trong thực tế lịch sử sau khi đất nước đã hòa bình, yên ổn thì "dân khổ chưa hồi sức" nên đặt ra nhiều vấn đề lớn để ổn định và phát triển triều đại. "Dân khổ chưa hồi sức, đức hóa chưa thấm nhuần, trẫm chăm chăm run sợ, mỗi ngày muôn việc lo toan. Nghĩ rằng: sức một ngày không chổng nổi tòa nhà to, mưu lược của kẻ thù sẽ không dựng được thái bình". Đoạn văn chứa đựng tấm lòng nhà vua vì sự bình an dân chúng và sự phồn vinh nước nhà. Những lời văn chan chứa tâm huyết của vua Quang Trung cho thấy vua không lúc nào không nghĩ đến cuộc sống của người dân và lo toan cho quốc gia đại sự. Tấm lòng đó quả là rộng lớn và quý báu của một vị vua suốt đời dâng hiến cho dân tộc. Có một nhà vua với những lí tưởng cao đẹp như thế đất nước sẽ luôn được thái bình, dân chúng sẽ luôn được hưởng ấm no hạnh phúc.
Toàn bộ bài Chiếu thể hiện rõ tình yêu nước thương dân nồng nàn của một nhà lãnh đạo tài ba. Để hợp sức dân lại xây dựng cơ nghiệp đất nước, nhà vua không loại trừ một tầng lớp xã hội nào, miễn là công dân trong nước có tài và đức đủ để gánh vác chuyện quốc gia đều được lựa chọn vào trong triều giúp vua gây dựng đất nước. "Vậy ban chiếu xuống, quan việc lớn nhỏ và dân chúng trăm họ ai có tài năng học thuật, mưu hay giúp ích cho đời, đều cho phép được dâng thư bày tỏ công việc".
Vua Quang Trung là một trong những vị vua đầu tiên luôn đề cao tối đa tính dân chủ trong việc tuyển dụng nhân tài giúp nước Cách nhìn xa trông rộng đó chứng tỏ nhà vua là người am hiểu quy luật phát triển của lịch sử, đã thấy được tương lai sau này của đất nước. Sự tiên tri đó nói lên tài phán đoán, tiên tri của một vị vua anh minh đối với quốc gia, dân tộc, bởi vì trong sâu thẳm tấm lòng nhà vua luôn nung nấu một khát vọng làm sao cho dân no ấm, hạnh phúc, đất nước giàu mạnh. Đó cũng chính là mơ ước của người dân nhằm canh tân nước nhà.
Bài Chiếu cầu hiền thể hiện cái tài, cái tâm của vua Quang Trung và cũng là cái tài, cái tâm của Ngô Thì Nhậm. Với tài năng xuất chúng của mình, Ngô Thì Nhậm đã truyền tải hết được tấm lòng đối với dân với nước của vua Quang Trung, khiến muôn dân thán phục. Với tài năng và đức độ của vị vua anh minh này, dân tộc ta đã có một thời kì được ấm no, hạnh phúc, đó là thời kì thịnh vượng của nước nhà.
Câu 2:
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng thể hiện sự nhận thức sâu sắc về vai trò của thế hệ trẻ trong quá trình xây dựng đất nước bằng câu nói: "Sự tươi đẹp của non sông Việt Nam, khả năng cạnh tranh với các cường quốc trên thế giới, và cả sự phát triển của đất nước chúng ta đều dựa vào phần lớn vào việc học tập và phấn đấu của các bạn trẻ." Thế hệ trẻ được xem là trụ cột quan trọng để đưa Việt Nam vươn lên trở thành một đất nước mạnh mẽ và phồn thịnh trên trường quốc tế.
Tuy nhiên, ngày nay, chúng ta đang đối mặt với một thực tế đáng buồn, đó là sự "chảy máu chất xám." Đơn giản, đây là hiện tượng khi một số lượng lớn các nhân tài trẻ và trí thức của Việt Nam quyết định định cư, làm việc tại nước ngoài thay vì quay về đóng góp cho quê hương. "Chất xám" ở đây đại diện cho trí tuệ, sự sáng tạo và năng lực của con người.
Rất nhiều bạn trẻ và những tài năng xuất sắc của Việt Nam sau khi học tập ở nước ngoài quyết định ở lại đóng góp tài năng và sáng tạo để tạo ra giá trị vật chất cho cộng đồng nơi họ đang sinh sống, thay vì trở về quê hương. Tình trạng này dẫn đến sự "thất thoát" của những nguồn nhân lực xuất sắc và ảnh hưởng đến quá trình xây dựng và phát triển đất nước.
Nguyên nhân của tình trạng chảy máu chất xám có thể được phân tích từ hai góc độ: góc độ cá nhân và góc độ cơ cấu xã hội. Từ góc độ cá nhân, nhiều người trẻ thích hưởng lợi từ môi trường làm việc tốt hơn và thu nhập cao hơn ở nước ngoài. Từ góc độ cơ cấu xã hội, Việt Nam vẫn đang phải đối mặt với sự phát triển kém cỏi so với các quốc gia tiên tiến, thiếu điều kiện và chế độ đãi ngộ không thực sự thúc đẩy sự phát triển của tài năng trong nước. Để giải quyết vấn đề này, chúng ta cần phải thực hiện các biện pháp như thu hút và giữ chân tài năng, tạo điều kiện làm việc hấp dẫn cho họ.
Bên cạnh đó, mỗi cá nhân cũng cần phát huy tình yêu đối với đất nước và tinh thần dân tộc, sẵn sàng đóng góp khả năng và sức lực để đưa Việt Nam tiến bước phía trước, thực hiện lời dạy của Bác Hồ và góp phần vào sự phát triển giàu đẹp của đất nước.
Câu 1:
-Phương thức biểu đạt chình trong bài là: Nghị luận
Câu 2 :
-Chủ thể bài viết : Ngô Thì Nhậm
Câu 3:
-Mục đích của Chiếu cầu hiền là kêu gọi và trọng dụng nhân tài giúp nước . Vua Quang Trung đề ra các đường lối tiến cử: khuyến khích hiền tài ra giúp nước, mở rộng cơ hội cho mọi tầng lớp, đãi ngộ xứng đáng và yêu cầu quan lại phải tiến cử người tài, nếu không sẽ bị trừng phạt.
Những đường lối tiến cử người hiền tài được đề cập trong văn bản:
- Người tiến cử được thưởng vào bực thượng thưởng, theo như phép xưa.
- Tiến cử người có tài trung bình thì được thưởng thăng hai trật.
- Tiến cử người có tài đức đều trội hơn đời, thì được trọng thưởng.
Câu 4 :
Trong Chiếu cầu hiền, vua Quang Trung khẳng định rằng khi đã có nước, việc đầu tiên là phải tìm người hiền tài để giúp trị nước. Để minh chứng cho luận điểm này, nhà vua đưa ra các dẫn chứng:
1. Dẫn chứng từ lịch sử – Nhắc đến các bậc đế vương xưa như Nghiêu, Thuấn, Đường, Ngu, các vua nhà Hán… đều nhờ trọng dụng hiền tài mà đất nước thịnh trị.
2. Dẫn chứng từ thực tiễn – Nhà vua nhìn nhận tình hình đất nước lúc bấy giờ và nhấn mạnh rằng muốn phát triển thì phải có người hiền giúp sức.
Cách nêu dẫn chứng của vua Quang Trung rất thuyết phục, kết hợp giữa lịch sử và thực tiễn để làm rõ tầm quan trọng của nhân tài đối với sự thịnh vượng của đất nước.
Câu 5:
-Vua Quang Trung là người trọng dụng nhân tài, có tầm nhìn chiến lược, khiêm tốn cầu thị và công minh, quyết đoán. Những phẩm chất này thể hiện tư tưởng lãnh đạo anh minh, mong muốn xây dựng đất nước vững mạnh.
Câu 1
Thể thơ trên của văn bản: Thất ngôn bát cú
Cau 2:
Những hình ảnh đạm bạc , thanh cao của tác giả: "Thu ăn măng trúc , đông ăn giá"-Tác giả sống giản dị,lấy những sản vật thiên nhiên để làm thức ăn
* " Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao " - Cuộc sống gần gũi với thiên nhiên, không cầu kỳ xa hoa
Câu 3:
Biện pháp tu từ liệt kê trong câu: " một mai, ,một cuốc,một cần câu "
* Phân tích: tác giả sử dụng phép liệt kê để nhấn mạnh các vận dụng quen thuộc của một cuộc sống giản dị, gần gũi với lao động. Những vật này tượng trưng cho lối sống an nhàn,tự lại không bị ràng buộc bởi danh lợi.
Câu 4:
- Quan điểm sống của tác giả, có chút mỉa mai, ngạo nghễ.
+ Tác giả tự nhận mình “ngu” dại, đây là cái ngu dại của bậc đại trí (đại trí như ngu), thực chất là “khôn”.
+ Ông khiêm tốn, không khoe khoang đây là cái thức của người trí nhân.
Câu 5:
Nguyễn Bỉnh Khiêm là một người học bác uyên thâm, đã từng lăn lộn chốn quan trường, đã hiểu quy luật biến dịch của cuộc đời, cũng hiểu danh lợi là phù du, do đó ông đã tìm đến cuộc sống tĩnh lặng cho tâm hồn, hòa nhập cùng thiên nhiên xem phú quý như một giấc chiêm bao, một giấc mộng phù du hư ảo. Đó mới chính là cuộc sống của một nhân cách lớn, một nhà trí tuệ lớn
Câu 1:
Trong cuộc sống, mỗi người đặc biệt là thế hệ trẻ luôn mang trong mình một quan niệm sống rõ rệt, nhưng lối sống điển hình nhất có lẽ là "sống ở thế chủ động".
Vậy phong cách sống này là gì và nó mang lại cho bản thân tuổi trẻ những ý nghĩa, giá trị nào? Trước hết, lối sống ấy là sống một cách tích cực, sống không ngừng sáng tạo, cống hiến, chuẩn bị cho tương lai, sống không bị động. Người có phong cách sống này luôn gặt hái được nhiều thành tích cao. Thực tế cho thấy, có rất nhiều bạn trẻ sở hữu lối sống này. Tiêu biểu như bạn Nguyễn Thuận Hưng, bạn luôn vạch ra cho mình những kế hoạch, mục tiêu cụ thể từ đó sống và học tập hết mình để hoàn thành được nhiệm vụ. Thật vậy, lối sống chủ động đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống của chúng ta. Khi chủ động, ta có thể nhạy bén với những thay đổi của xã hội, của thế giới mà không rơi vào tình trạng bị động, lạc lối. Hơn hết, chính nó sẽ biến ta thành con người chăm chỉ, siêng năng và luôn sở hữu trí tưởng tượng phong phú, lối làm việc sáng tạo và nhanh nhạy.
Bên cạnh đó, chính lối sống ấy còn giúp bạn được đánh giá cao trong mắt của mỗi người. Ấy thế mà ngày nay cạnh bên những bạn trẻ sống ở thế chủ động vẫn còn tồn đọng nhiều thanh niên sống chỉ biết ỷ lại vào người khác, sống thụ động.
Qua đây, mỗi chúng ta, thế hệ trẻ, mầm mống tương lai của đất nước hãy có cho mình một lối sống tích cực, chủ động, sáng tạo. Có như vậy bạn mới thành công và đất nước mới phát triển bền vững.
Câu 2:
Đoạn thơ trên vẽ nên một bức tranh thiên nhiên và cuộc sống bình yên, trù phú. Hình ảnh “Hòe lục đùn đùn tán rợp trường”, “Thạch lưu hiên còn phun thức đỏ”, “Hồng liên trì đã tịn mùi hương” miêu tả vẻ đẹp tươi tốt, tràn đầy sức sống của thiên nhiên. Tiếng “lao xao chợ cá làng ngư phủ” cùng âm thanh “dắng dỏi cầm ve lâu tích dưỡng” gợi lên không khí náo nhiệt nhưng vẫn rất thanh bình. Đặc biệt, câu thơ “Dân giàu đủ khắp đôi phương” thể hiện sự ấm no, hạnh phúc của con người. Tổng thể, đoạn thơ không chỉ là bức tranh phong cảnh mà còn phản ánh một cuộc sống sung túc, hài hòa giữa thiên nhiên và con người. Nó thể hiện mong ước về một xã hội thịnh vượng, yên vui, nơi con người sống trong cảnh thanh bình, tràn đầy hạnh phúc.