

Trương Tiến Đức
Giới thiệu về bản thân



































câu1
Động vật và con người có một mối liên kết chặt chẽ với nhau, bởi vì động vật có vai trò rất lớn đối vs cuộc sống của chúng ta. Trong lao động sản xuất, con trâu, con bò gắn bó với con người nhất, chúng giúp người nông dân cày xới, chuyên chở, làm cho vụ mùa tốt tươi. Nếu con trâu là biểu tượng của đồng quê bình dị, trù phú, thì con chó lại là biểu tượng của tinh thần trung thành và lòng dũng cảm trong văn hóa người Việt ta. ,chó sống gần gũi với con người hơn cả loài trâu, chúng lại là loài tinh khôn, nhanh nhẹn nên rất được con người yêu mến. Người Việt ta còn nuôi các giống gà trong vườn để làm thực phẩm, tuy loài gà không tinh khôn nhưng là loài hiền lành, thân thiện, luôn được con người yêu mến. Các loài chim cũng được thuần hóa và nuôi trong nhà để làm đẹp không gian... Chúng ta nuôi một số loài trong nhà để làm thú cưng, nuôi một số khác để lấy thịt, sữa... nhưng cũng có nhiều loài đã bị con người đưa đến bờ tuyệt chủng và giờ lại chúng ta đang cố gắng cứu chúng. Con người ngày càng trở nên vô cảm và tàn nhẫn với các loài vật, họ nuôi loài vật vì mục đích kinh tế chứ không phải bằng tình yêu thương đối với chúng,bởi thế, họ sẵn sàng hành hạ hoặc hủy diệt sự sống của chúng khi không cần chúng nữa,đó là một thực trạng đáng buồn của xã hội ngày nay.Con vật nuôi cũng như con người, chúng rất cần được chăm sóc, yêu thương và bảo vệ. Dù cuộc sống có phát triển, không gian trở nên chật hẹp nhưng khi đã nuôi chúng, con người cần phải dành cho chúng một tình cảm tốt đẹp, cần phải biết yêu thương và dành cho chúng sự chăm sóc cần thiết. Hãy xây dựng một tình cảm tốt đẹp đối với động vật nuôi. Phải yêu thương chúng như yêu thương cuộc sống của chúng ta, chỉ khi biết yêu thương loài vật nuôi, con người mới biết yêu thương lẫn nhau.Con người không thể tồn tại mà không có các loài vật, vì vậy hãy yêu thương các loài vật nuôi và ra sức bảo vệ chúng,đừng để đến một ngày nào đó, ta chỉ còn mường tượng chúng qua hình ảnh trong sự hối tiếc muộn màng.
câu 2
Hoàng Cầm, nhà thơ của miền quê Kinh Bắc. Ông sinh năm 1922. Ông nói về quê Mẹ đất Cha:
"Tôi người Quan họ
Quê mẹ bên này sông
Cách quê cha một dòng
Nước trắng…"
Dòng sông "nước trắng" ấy chính là dòng sông Đuống yêu thương. Hoàng Cầm là một trong những thi sĩ đương đại cực kì tài hoa. Tâm hồn ông đã chơi vơi với những mối tình thơ mộng như đi tìm "lá diêu bông" một chiều thu tím nào. Cuộc đời ông đã từng nếm nhiều nỗi đau. Ông khóc mình… rồi khóc con gái "mệnh yểu":
"Sực nhớ cha vò võ tuyết sương
Con hóa thành tia sao Thương
Cắt ngang đường sao băng".
(Men đá vàng)
Nếu tính từ năm 1937 khi viết "Hận Nam Quan" đến năm 1995, tập thơ "Men Đá Vàng" xuất bản, Hoàng Cầm đã có ngót 60 năm làm thơ. "Bên kia sông Đuống", "Lá diêu bông", "Mưa Thuận Thành", kịch thơ "Trương Chi",… là những tiếng thơ, tiếng hát để thương, để nhớ cho đời.
Hoàng Cầm viết bài thơ "Bên kia sông Đuống" vào một đêm tháng 4 năm 1948 tại chiến khu Việt Bắc. Xúc động trào dâng sau khi được nghe những tin tức quê nhà bị giặc chiếm đóng, tàn phá, dưới ngọn đèn dầu sử, trong tiếng vọng của tiếng súng, ông viết thâu canh, cho đến lúc gà gáy sáng thì hoàn thành bài thơ. "Bên kia sông Đuống" là một trong những bài thơ hay nhất viết về đề tài quê hương của thơ ca kháng chiến chống Pháp; thi phẩm này đã làm vẻ vang cho nhà thơ Hoàng Cầm. Tràn ngập bài thơ là cái tình quê, hồn quê dạt dào. Nỗi nhớ thương, tự hào quê Mẹ đất Cha, nỗi xót xa, căm giận, nuối tiếc… quê hương đang bị quân thù giày xéo, là cảm xúc chủ đạo của áng thơ này. Với 134 dòng thơ sâu lắng, thiết tha, bồn chồn… hòa quyện vào nhau, bài thơ cứ ngân nga rung động hoài trong tâm trí người đọc. Hoàng Cầm đã có lần tâm sự về "Bên kia sông Đuống": "Hương vị dân tộc, chất tình tứ, hư ảo của những câu ca Quan họ đã thấm đẫm trong hồn tôi từ những ngày nhỏ dại". Chính hương vị ấy, chất tình tứ, hư ảo ấy đã diệt nên sắc điệu trữ tình của bài ca quê hương này. Mở đầu bài thơ là một tiếng gọi mơ hồ, xa xăm vọng lên từ tâm tưởng, trong hoài niệm, nhiều bồi hồi, xao xuyến. Như an ủi, như vỗ về, như thương nhớ, tủi sầu:
"Em ơi buồn làm chi
Anh đưa em về sông Đuống
Ngày xưa cát trắng phẳng lì".
Con sông tuổi thơ "cát trắng phẳng lì" là cội nguồn của nỗi buồn, nỗi nhớ của anh và em, của ngày xưa, của năm tháng. Em là sự phân thân của nhà thơ, hay "người tình chung" từng "để thương, để nhớ để sầu cho ai…". Em đến để tâm tình, để thổ lộ… và hẹ em trong "ngày hội non sông": "Em mặc yếm thắm – Em thắt lụa hồng – Em đi trẩy hội non sông – Cười mêm ánh sáng muôn lòng xuân xanh". "Em" đến đúng lúc để "anh" giãi bày, để khơi gợi nguồn thơ. Đó là chất tình tứ hư ảo trong thơ Hoàng Cầm mà ta cảm nhận được. Mở đầu bài thơ là một tiếng gọi mơ hồ, xa xăm vọng lên từ tâm tưởng, trong hoài niệm, nhiều bồi hồi, xao xuyến. Như an ủi, như vỗ về, như thương nhớ, tủi sầu:
"Em ơi buồn làm chi
Anh đưa em về sông Đuống
Ngày xưa cát trắng phẳng lì".
Con sông tuổi thơ "cát trắng phẳng lì" là cội nguồn của nỗi buồn, nỗi nhớ của anh và em, của ngày xưa, của năm tháng. Em là sự phân thân của nhà thơ, hay "người tình chung" từng "để thương, để nhớ để sầu cho ai…". Em đến để tâm tình, để thổ lộ… và hẹ em trong "ngày hội non sông": "Em mặc yếm thắm – Em thắt lụa hồng – Em đi trẩy hội non sông – Cười mêm ánh sáng muôn lòng xuân xanh". "Em" đến đúng lúc để "anh" giãi bày, để khơi gợi nguồn thơ. Đó là chất tình tứ hư ảo trong thơ Hoàng Cầm mà ta cảm nhận được Mở đầu bài thơ là một tiếng gọi mơ hồ, xa xăm vọng lên từ tâm tưởng, trong hoài niệm, nhiều bồi hồi, xao xuyến. Như an ủi, như vỗ về, như thương nhớ, tủi sầu:
"Em ơi buồn làm chi
Anh đưa em về sông Đuống
Ngày xưa cát trắng phẳng lì".
Con sông tuổi thơ "cát trắng phẳng lì" là cội nguồn của nỗi buồn, nỗi nhớ của anh và em, của ngày xưa, của năm tháng. Em là sự phân thân của nhà thơ, hay "người tình chung" từng "để thương, để nhớ để sầu cho ai…". Em đến để tâm tình, để thổ lộ… và hẹ em trong "ngày hội non sông": "Em mặc yếm thắm – Em thắt lụa hồng – Em đi trẩy hội non sông – Cười mêm ánh sáng muôn lòng xuân xanh". "Em" đến đúng lúc để "anh" giãi bày, để khơi gợi nguồn thơ. Đó là chất tình tứ hư ảo trong thơ Hoàng Cầm mà ta cảm nhận được
câu1: nghị luân
câu 2: mối quan hệ của thiên nhiên và con người, sự trân trọng của con người dành cho thiên nhiên
câu 3:
BPTT điệp cấu trúc , Tạo nhịp điện cho đoạn văn khiến nó giàu chất thơ, tăng sự hàm súc cho câu văn. Nhấn mạnh sự vô tư, bao dung, độ lượng, sự thứ tha của tự nhiên đối với con người
câu 4: Cũng bởi con người quá đỗi vô tư trước những hành động làm tổn thương mà mình đã gây ra cho người khác; cho những thứ vô tri, vô giác hoặc đôi khi là những người xung quanh chính mình. Việc bị những cái gai đâm như một hình ảnh ẩn dụ cho những viết thương, cho sự đau đớn mà bản thân cảm nhận được khi ta làm tổn thương người khác, cho lỗi lầm mà mình đã gây ra cho mọi người. Làm tổn thương người khác cũng chính là làm đau chính mình và mọi người, việc bị tổn thương cũng chính là rỉ máu
câu 5: “Thế giới cần nâng niu quá đỗi. Ta sống đời lại thô tháp làm sao. Ta làm tổn thương những dòng sông. Ta làm tổn thương những mặt đầm. Ta làm tổn thương những mảnh vườn. Ta làm tổn thương những mùa hoa trái. Ta làm tổn thương những bình minh yên ả. Ta làm tổn thương những canh khuya trong vắng. Ta làm đau những niềm người quá đỗi mong manh...