

Ma Thị My Lan
Giới thiệu về bản thân



































“Nguyễn Đình Chiểu là ngòi bút tiêu biểu cho dòng văn học yêu nước nửa sau thế kỷ XIX, luôn hướng ngòi bút vào việc ca ngợi những con người bình dị, anh dũng. Tác phẩm Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là khúc bi tráng ngợi ca những người nông dân áo vải dám đứng lên chống giặc ngoại xâm. Đoạn trích sau đây đã thể hiện một cách sâu sắc thân phận đau thương nhưng đầy khí phách của họ.”Những người nông dân áo vải bị cuốn vào cuộc chiến tranh giữ nước. Tác giả đã thể hiện nỗi đau thương xót xa trước số phận bi thảm của những con người hiền lành, chất phác nhưng phải chịu nhiều oan khiên: “Buổi chiến trận mạng người như rác”, “Ai chồng con tá biết là cậy ai?”. Với giọng điệu ai oán, ngậm ngùi và hình ảnh chân thực, giàu sức gợi, đoạn thơ đã lay động lòng người, làm nổi bật tinh thần yêu nước và phẩm chất cao đẹp của những người dân quê trong thời loạn. Nghệ thuật sử dụng câu hỏi tu từ, điệp từ, hình ảnh đối lập đã tăng thêm sự thương cảm và trân trọng đối với những con người bình dị đã hi sinh vì nghĩa lớn. Đoạn thơ là tiếng lòng chân thành, cảm động của Nguyễn Đình Chiểu dành cho nghĩa sĩ đã ngã xuống.
Trong kho tàng văn học Việt Nam, hình tượng nàng Vọng Phu đã trở thành biểu tượng bất diệt của lòng thủy chung và nỗi chờ mong vô tận. Nhà thơ Vương Trọng, bằng sự đồng cảm sâu sắc, đã mượn hình tượng ấy để thể hiện những suy tư về thân phận và niềm tin của người phụ nữ Việt Nam qua bài thơ Trò chuyện với nàng Vọng Phu. Qua đó, ông đã khắc họa hình ảnh người vợ chờ chồng với bao nỗi cô đơn, đau đáu và niềm tin bất diệt.”Hình tượng “nàng Vọng Phu” trong bài thơ là biểu tượng cho lòng thủy chung son sắt và nỗi đau chờ đợi triền miên. Qua những câu thơ chan chứa cảm xúc, tác giả dựng lên hình ảnh người vợ hóa đá, nhưng đó không chỉ là hóa thân của nỗi cô đơn mà còn là sự hóa thân của niềm tin, sự son sắt. Người vợ ấy đứng giữa mưa gió, bão tố, ngàn năm không nguôi hy vọng. Vương Trọng đã khai thác chiều sâu tâm trạng nhân vật, thể hiện sự thấu hiểu nỗi lòng đau khổ, mòn mỏi đến tận cùng của người vợ chờ chồng. Hình tượng nàng Vọng Phu trong bài thơ vừa giàu tính biểu tượng, vừa mang đậm giá trị nhân văn, khiến người đọc xúc động trước sự hi sinh thầm lặng và vẻ đẹp tâm hồn cao cả của người phụ nữ Việt Nam.
Trong bài thơ Chân quê, nhân vật “em” hiện lên với vẻ đẹp mộc mạc, chân chất của cô gái thôn quê. Qua hình ảnh “khăn nhung, quần lĩnh”, “áo cài khuy bấm”, nhà thơ Nguyễn Bính thể hiện nỗi buồn xen lẫn tiếc nuối khi người con gái quê dần xa rời vẻ đẹp thuần phác của làng quê để chạy theo lối sống thị thành. “Em” trong bài thơ chính là biểu tượng cho sự trong sáng, giản dị mà tác giả mong muốn gìn giữ giữa những đổi thay của thời đại. Nguyễn Bính dùng giọng thơ tâm tình, thiết tha, chân thành để bộc lộ ước nguyện giữ gìn nét quê mộc mạc, đồng thời khéo léo thể hiện tình cảm yêu thương đậm đà dành cho nhân vật “em”. Qua đó, Chân quê không chỉ ca ngợi vẻ đẹp truyền thống mà còn gợi lên nỗi niềm băn khoăn trước sự biến đổi của xã hội nông thôn Việt Nam xưa.