

NGUYỄN TRANG THƯ
Giới thiệu về bản thân



































Câu 1. Chỉ ra phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong văn bản.
Trả lời:
Phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong văn bản là biểu cảm.
Ngoài ra, tác giả còn kết hợp yếu tố nghị luận và tự sự để làm nổi bật cảm xúc và suy tư về lối sống, đặc biệt là hình ảnh dòng sông như ẩn dụ cho cuộc đời con người.
Câu 2. Chỉ ra hai lối sống mà con người đã từng đôi lần trải qua được tác giả nêu trong đoạn trích.
Trả lời:
Hai lối sống được tác giả nêu trong đoạn trích là:
- Lối sống thu mình, bất động, tìm kiếm sự an toàn, trốn tránh va chạm:
“Khước từ sự vận động. Tìm quên trong những giấc ngủ vùi. Tìm sự an toàn trong vẻ ngoan ngoãn bất động…”
- Lối sống hướng ra phía trước, dám trải nghiệm, dám vươn ra biển lớn:
“Sông như đời người. Và sông phải chảy. Như tuổi trẻ phải hướng ra biển rộng…”
Câu 3. Phân tích tác dụng của biện pháp tu từ được sử dụng trong đoạn: “Sông như đời người. Và sông phải chảy. Như tuổi trẻ phải hướng ra biển rộng.”
Trả lời:
Đoạn văn sử dụng biện pháp so sánh:
- “Sông như đời người”
- “Sông phải chảy như tuổi trẻ phải hướng ra biển rộng”
Tác dụng:
- Làm nổi bật sự tương đồng giữa dòng sông và cuộc đời con người, đặc biệt là tuổi trẻ.
- Gợi ra hình ảnh một đời sống năng động, không ngừng vận động, vươn ra phía trước, như dòng sông không thể đứng yên mà phải chảy ra biển lớn.
- Thể hiện một quan niệm sống tích cực, mạnh mẽ và giàu lý tưởng.
Câu 4. Em hiểu như thế nào về “tiếng gọi chảy đi sông ơi” được nhắc đến trong câu văn: “Không thể thế bởi mỗi ngày ta phải bước đi như nghe trong mình tiếng gọi chảy đi sông ơi.”?
Trả lời:
- “Tiếng gọi chảy đi sông ơi” là một hình ảnh ẩn dụ cho khát vọng sống mãnh liệt, sự thôi thúc vươn lên, trải nghiệm, không dừng lại của con người.
- Nó tượng trưng cho tiếng gọi của lý tưởng, của ước mơ, của những hoài bão lớn lao thôi thúc mỗi người không được dậm chân tại chỗ, không được buông xuôi hay thỏa hiệp với sự an toàn tạm bợ.
- Là lời nhắc nhở ta phải sống hết mình, sống có mục tiêu, có trách nhiệm với chính cuộc đời mình.
Câu 5. Từ nội dung văn bản, em rút ra được bài học nào? Vì sao?
Trả lời:
Bài học rút ra:
- Con người, đặc biệt là tuổi trẻ, cần phải sống chủ động, không ngừng vận động, dấn thân và trải nghiệm.
- Không nên trốn tránh thực tại, sống thu mình trong vùng an toàn, bởi điều đó khiến ta trở nên bế tắc, như dòng sông mắc cạn trong đầm lầy.
Vì sao:
- Bởi cuộc đời giống như dòng sông – chỉ khi chảy, khi vươn ra biển lớn, sông mới thực sự mang lại giá trị.
- Sống mà không vận động, không đi tới, chính là từ bỏ cơ hội phát triển, hạnh phúc và cả lý tưởng sống.
Câu 1 (2.0 điểm):
Lối sống chủ động đóng vai trò vô cùng quan trọng trong cuộc sống hiện đại, khi con người phải đối mặt với vô vàn cơ hội lẫn thách thức. Sống chủ động nghĩa là không chờ đợi cơ hội đến mà biết tạo ra cơ hội; không để hoàn cảnh chi phối mà biết làm chủ hoàn cảnh. Người sống chủ động luôn tự giác học tập, rèn luyện, có kế hoạch rõ ràng và biết đặt ra mục tiêu cho bản thân. Chính lối sống này giúp con người phát huy tối đa khả năng, thích ứng linh hoạt trước sự thay đổi nhanh chóng của xã hội. Ngược lại, những ai sống thụ động thường dễ bỏ lỡ cơ hội, chậm thích nghi và khó thành công. Trong bối cảnh toàn cầu hóa và chuyển đổi số như hiện nay, sống chủ động còn giúp mỗi người nâng cao năng lực cạnh tranh, tự khẳng định vị trí của mình trong xã hội. Vì thế, lối sống chủ động không chỉ cần thiết mà còn là yếu tố quyết định thành công và hạnh phúc của mỗi cá nhân.
Câu 2 (4.0 điểm):
Bài thơ số 43 trong chùm “Bảo kính cảnh giới” của Nguyễn Trãi không chỉ là một bức tranh thiên nhiên rực rỡ, sinh động mà còn thể hiện tâm hồn cao đẹp và lý tưởng sống vì dân, vì nước của một bậc đại thần ẩn sĩ. Bằng bút pháp tả cảnh sinh động, ngôn ngữ thơ tinh tế, Nguyễn Trãi đã vẽ nên bức tranh mùa hè thanh bình, ấm no, thể hiện một cách sâu sắc quan niệm sống và lý tưởng cao đẹp của ông trong thời đại đầy biến động.
Ngay từ câu thơ đầu tiên:
“Rồi hóng mát thuở ngày trường”,
nhà thơ mở ra không gian thư nhàn, yên bình. Từ “rồi” gợi một nhịp sống ung dung, tự tại, không bị chi phối bởi những lo toan danh lợi. Cụm từ “hóng mát thuở ngày trường” diễn tả một khoảng thời gian dài thư thái, cho thấy tác giả đang sống trong trạng thái an nhiên, thoát tục. Đó không phải là cái nhàn của kẻ tránh đời, mà là cái nhàn của người từng trải, tìm sự thanh thản sau những năm tháng bôn ba vì nước.
Bức tranh thiên nhiên mùa hè được miêu tả bằng loạt hình ảnh sống động:
“Hoè lục đùn đùn tán rợp trương.
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ.
Hồng liên trì đã tịn mùi hương.”
Cây hoè xanh mướt tỏa bóng râm, cành lá như đùn đùn tràn ra, tán xòe rộng như chiếc ô lớn. Bông lựu như “phun thức đỏ”, gợi màu sắc rực rỡ, tràn trề sức sống. Hồ sen (liên trì) tỏa ra hương thơm dịu nhẹ, gợi một cảm giác yên ả, thanh khiết. Bức tranh vừa rực rỡ vừa thơm ngát, không chỉ đẹp về hình mà còn giàu cảm xúc. Thiên nhiên trong thơ Nguyễn Trãi không chỉ là ngoại cảnh, mà là nơi phản chiếu tâm hồn tinh tế, yêu cái đẹp và hòa hợp với đạo lý tự nhiên của ông.
Không chỉ có thiên nhiên, cuộc sống con người cũng được tái hiện sinh động qua những âm thanh đời thường:
“Lao xao chợ cá làng ngư phủ;
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương.”
“Chợ cá làng ngư phủ” gợi không khí nhộn nhịp của cuộc sống lao động yên bình, trù phú nơi làng chài. Âm thanh “lao xao” làm bức tranh thêm sinh động và gần gũi. Còn tiếng ve “dắng dỏi” nơi “lầu tịch dương” lại gợi chút u hoài, mang âm hưởng của thời gian và sự lặng lẽ. Hai câu thơ kết hợp âm thanh thiên nhiên và âm thanh cuộc sống con người, tạo nên một bản hòa ca trữ tình vừa vui tươi, vừa sâu lắng.
Đặc biệt, hai câu thơ cuối kết tinh tư tưởng lớn của Nguyễn Trãi:
“Lẽ có Ngu cầm đàn một tiếng,
Dân giàu đủ khắp đòi phương.”
Ngu cầm là biểu tượng của đức trị, là cây đàn mà vua Nghiêu, vua Thuấn thời cổ dùng để dạy dân, cai trị thiên hạ. Nguyễn Trãi không chỉ thưởng ngoạn thiên nhiên, mà còn mong muốn đóng góp vào sự yên vui, no đủ cho muôn dân. Câu thơ thể hiện lý tưởng nhân nghĩa – trị quốc bằng đức và lòng yêu dân sâu sắc của ông. Qua đó, ta thấy được một nhà nho ẩn sĩ tuy rời chốn quan trường nhưng lòng vẫn canh cánh với dân, với nước.
Bài thơ là sự kết hợp hài hòa giữa thiên nhiên và lý tưởng. Nó không chỉ là bức tranh mùa hè tuyệt đẹp, mà còn là tâm sự sâu kín của một con người từng trải, từng cống hiến và nay chọn sống thanh đạm nhưng lòng vẫn đầy trách nhiệm với cuộc đời. Nguyễn Trãi đã để lại cho hậu thế một áng thơ không chỉ đẹp về nghệ thuật mà còn sâu sắc về tư tưởng, minh chứng cho vẻ đẹp tâm hồn của một bậc đại nhân văn trong lịch sử dân tộc.
Câu 1 (0.5 điểm): Văn bản trên được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật.
Câu 2 (0.75 điểm): Những hình ảnh nói về nét sinh hoạt hàng ngày đạm bạc, thanh cao của tác giả là: “Một mai, một cuốc, một cần câu” → chỉ công việc làm vườn, câu cá giản dị. “Thu ăn măng trúc, đông ăn giá” → bữa ăn đơn sơ với rau củ tự nhiên. “Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao” → sinh hoạt hài hòa với thiên nhiên. “Rượu, đến cội cây, ta sẽ uống” → thưởng rượu nơi gốc cây, ung dung tự tại.
Câu 3 (0.75 điểm): Biện pháp tu từ liệt kê trong câu thơ: “Một mai, một cuốc, một cần câu” – liệt kê các dụng cụ lao động. Tác dụng: Gợi lên lối sống giản dị, gần gũi với thiên nhiên, thể hiện sự ung dung, an nhàn của tác giả trong cuộc sống điền viên.
Câu 4 (1.0 điểm): Quan niệm “dại – khôn” của tác giả có nét đặc biệt: Đối lập giữa “dại” (tìm nơi vắng vẻ) và “khôn” (đến chốn lao xao). Tác giả tự nhận mình là “dại” nhưng thực chất là sự lựa chọn có chủ đích, thể hiện cái “khôn” đích thực – sống tránh xa danh lợi, ồn ào, tìm sự thanh tĩnh, an lạc. Quan niệm này phản ánh triết lý sống của nhà Nho ẩn dật: coi nhẹ công danh, đề cao sự tự do nội tâm.
Câu 5 (1.0 điểm): Nguyễn Bỉnh Khiêm hiện lên là một người có nhân cách thanh cao, sống giản dị và gần gũi với thiên nhiên. Ông chọn cuộc sống ẩn dật, tránh xa danh lợi, giữ cho tâm hồn thanh thản. Quan niệm "dại - khôn" của ông thể hiện sự tỉnh táo, bản lĩnh khi coi thường vinh hoa phú quý. Với ông, phú quý chỉ là giấc chiêm bao, điều đáng quý là sự an nhiên, tự tại trong tâm hồn. Qua đó, ta cảm nhận được vẻ đẹp của một bậc hiền triết, sống theo lối sống đạo đức và đầy trí tuệ.