

Lương Minh Anh
Giới thiệu về bản thân



































Câu 1
Ngôn ngữ dân tộc là tài sản vô giá của mỗi quốc gia, là biểu tượng của bản sắc văn hóa và lịch sử dân tộc. Việc giữ gìn sự trong sáng của ngôn ngữ dân tộc không chỉ là bảo vệ giá trị văn hóa mà còn góp phần duy trì sự phát triển bền vững của cộng đồng. Trong bối cảnh toàn cầu hóa và sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ, ngôn ngữ dân tộc đang phải đối mặt với nhiều thách thức, đặc biệt là sự xâm nhập của các yếu tố ngoại lai, đặc biệt là từ tiếng Anh. Điều này dẫn đến việc một số từ ngữ, cấu trúc ngữ pháp bị biến dạng, làm giảm đi sự trong sáng và tính chính thống của ngôn ngữ. Để giữ gìn sự trong sáng của ngôn ngữ, mỗi người cần ý thức được tầm quan trọng của việc sử dụng ngôn ngữ đúng mực, tránh sử dụng các từ ngữ ngoại lai không cần thiết, đồng thời cần khôi phục và phát triển các từ vựng cổ xưa, các hình thức giao tiếp truyền thống. Nhà trường và các cơ quan truyền thông cũng cần tích cực tuyên truyền, giáo dục cộng đồng về việc bảo vệ ngôn ngữ dân tộc, tạo ra môi trường thuận lợi cho ngôn ngữ phát triển một cách tự nhiên và trong sáng. Kết luận lại, việc giữ gìn sự trong sáng của ngôn ngữ dân tộc là trách nhiệm của mỗi cá nhân và cộng đồng. Chỉ khi ngôn ngữ của chúng ta được bảo vệ và phát triển đúng cách, chúng ta mới có thể giữ gìn được bản sắc văn hóa riêng biệt, đồng thời tạo nền tảng vững chắc cho sự giao lưu, học hỏi và phát triển trong xã hội hiện đại. Chính vì vậy, mỗi người cần nỗ lực đóng góp vào việc bảo vệ và làm phong phú thêm ngôn ngữ dân tộc, không chỉ vì lợi ích của hôm nay mà còn vì tương lai của thế hệ sau.
Câu 2
Trong kho tàng văn học Việt Nam, những tác phẩm ca ngợi giá trị ngôn ngữ dân tộc luôn giữ một vị trí quan trọng. Bài thơ "Tiếng Việt của chúng mình trẻ lại trước mùa xuân" của Phạm Văn Tình là một trong những bài thơ tiêu biểu thể hiện tình yêu sâu sắc đối với tiếng Việt và sự trân trọng đối với di sản văn hóa mà ngôn ngữ này mang lại. Bằng những hình ảnh sinh động và sâu sắc, tác giả không chỉ khắc họa vẻ đẹp và sự trường tồn của tiếng Việt mà còn làm nổi bật vai trò của nó trong việc kết nối quá khứ, hiện tại và tương lai của dân tộc.
Phạm Văn Tình là một nhà thơ, nhà văn nổi bật của văn học Việt Nam đương đại. Ông sinh ra và lớn lên trong một gia đình có truyền thống văn hóa, vì vậy các tác phẩm của ông thường mang đậm ảnh hưởng của dân tộc và lịch sử. Phạm Văn Tình không chỉ được biết đến qua những bài thơ lãng mạn, mà còn qua những tác phẩm khắc họa vẻ đẹp của ngôn ngữ và văn hóa dân tộc. Ông có khả năng sử dụng ngôn từ mượt mà, dễ đi vào lòng người, kết hợp giữa sự hào hùng của lịch sử và sự gần gũi trong đời sống thường nhật.Bài thơ "Tiếng Việt của chúng mình trẻ lại trước mùa xuân" là tác phẩm tiêu biểu, ca ngợi vẻ đẹp và sự trường tồn của tiếng Việt. Qua bài thơ, tác giả khẳng định mối liên hệ giữa ngôn ngữ và giá trị văn hóa, lịch sử dân tộc, đồng thời truyền tải thông điệp về sự bất diệt của tiếng Việt qua thời gian.
Bài thơ mở đầu bằng những câu thơ gợi lên hình ảnh lịch sử hào hùng của dân tộc: "Tiếng Việt chúng mình có từ thời xa lắm / Thuở mang gươm mở cõi dựng kinh thành / Vó ngựa hãm Cổ Loa, mũi tên thần bắn trả". Những câu thơ này không chỉ là lời nhắc nhớ về cội nguồn của tiếng Việt mà còn gợi lại những chiến công oai hùng trong lịch sử, nơi mà ngôn ngữ đã trở thành vũ khí tinh thần gắn liền với những trận chiến quyết liệt, những bước đi vững vàng của dân tộc. Tiếng Việt, từ thuở hồng hoang, đã theo chân những người con đất Việt trong hành trình dựng nước và giữ nước. Hình ảnh "vó ngựa hãm Cổ Loa" hay "mũi tên thần bắn trả" chính là sự kết nối giữa ngôn ngữ và lịch sử, giữa dân tộc và những chiến thắng vang dội qua thời gian.
Không chỉ dừng lại ở việc ca ngợi nguồn gốc của tiếng Việt, tác giả tiếp tục khẳng định tầm quan trọng của ngôn ngữ dân tộc trong việc lưu giữ các giá trị văn hóa qua những câu thơ: "Bao thế hệ đam mê sống lại thời chiến trận / Bài Hịch năm nào hơn mười vạn tinh binh / Cả dân tộc thương nàng Kiều rơi lệ / Lời Bác truyền gọi ta biết sống vượt lên mình". Những câu thơ này không chỉ tái hiện lại những dấu mốc lịch sử quan trọng mà còn khẳng định sự trường tồn của tiếng Việt qua các thế hệ. Tiếng Việt là phương tiện để truyền tải những tác phẩm văn học bất hủ như Bài Hịch của Trần Quốc Tuấn hay Truyện Kiều của Nguyễn Du, những tác phẩm đã nuôi dưỡng tinh thần dân tộc và gắn bó với mỗi người Việt Nam. Cũng từ đó, tiếng Việt trở thành ngọn lửa, truyền cảm hứng để người dân không ngừng đấu tranh, xây dựng và phát triển đất nước.
Trong phần tiếp theo của bài thơ, Phạm Văn Tình tiếp tục làm nổi bật sự gắn kết của tiếng Việt với đời sống hiện đại và tình cảm gia đình. Những câu thơ như: "Tiếng Việt ngàn năm trong ta là tiếng mẹ / Là tiếng em thơ bập bẹ hát theo bà / Xốn xang lời ru tình cờ qua xóm nhỏ / Ơi tiếng Việt mãi nồng nàn trong câu hát dân ca!" khắc họa sự gần gũi, thân thương của tiếng Việt trong mỗi gia đình, mỗi làng quê. Tiếng Việt không chỉ là ngôn ngữ của những trận chiến hào hùng mà còn là những lời ru ngọt ngào, là lời nói yêu thương giữa bà, mẹ và con cháu. Nó thấm đẫm tình cảm và sự gắn bó với những giá trị nhân văn sâu sắc, là phương tiện truyền tải tình yêu thương, sự chăm sóc và sự quan tâm trong mỗi gia đình Việt Nam.
Cuối cùng, tác giả khép lại bài thơ bằng những hình ảnh tươi sáng, tràn đầy sức sống: "Tiếng Việt ngàn đời hôm nay như trẻ lại / Bánh chưng xanh, xanh đến tận bây giờ / Bóng chim Lạc bay ngang trời, thả hạt vào lịch sử / Nảy lộc đâm chồi, thức dậy những vần thơ". Hình ảnh "bánh chưng xanh" và "chim Lạc bay ngang trời" không chỉ mang đậm màu sắc dân tộc mà còn là sự biểu trưng cho sức sống mãnh liệt của tiếng Việt trong hiện tại và tương lai. Dù trải qua bao biến đổi, tiếng Việt vẫn giữ được sự tươi mới, vẫn tiếp tục phát triển và trở thành nguồn cảm hứng vô tận cho những thế hệ tiếp theo.
Về nghệ thuật, bài thơ của Phạm Văn Tình sử dụng nhiều hình ảnh mang tính biểu tượng và ẩn dụ phong phú. Những hình ảnh như "vó ngựa hãm Cổ Loa", "bánh chưng xanh", "chim Lạc bay ngang trời" không chỉ giàu tính lịch sử mà còn chứa đựng ý nghĩa sâu sắc, tạo nên một không gian thiêng liêng, huyền bí. Lối viết của tác giả nhẹ nhàng, nhưng cũng không kém phần mạnh mẽ, như một lời khẳng định về sự trường tồn và bất diệt của tiếng Việt qua mọi thời đại. Các câu thơ ngắn gọn, súc tích nhưng lại đầy ắp cảm xúc và ý nghĩa, khiến người đọc cảm nhận được sự gắn bó sâu sắc giữa tiếng Việt và những giá trị tinh thần của dân tộc.
Kết luận, bài thơ "Tiếng Việt của chúng mình trẻ lại trước mùa xuân" là một tác phẩm tuyệt vời thể hiện niềm tự hào và tình yêu sâu sắc của tác giả đối với tiếng Việt. Qua đó, tác giả không chỉ ca ngợi sự đẹp đẽ, thiêng liêng của ngôn ngữ dân tộc mà còn khẳng định rằng tiếng Việt chính là sợi dây kết nối quá khứ, hiện tại và tương lai của mỗi người con đất Việt. Bài thơ là một lời nhắc nhở về việc gìn giữ và phát huy giá trị của tiếng Việt trong bối cảnh xã hội ngày càng hội nhập và phát triển.
Câu 1.
Kiểu văn bản: Văn bản nghị luận.
Câu 2.
Vấn đề được đề cập đến trong văn bản: Việc tôn trọng và sử dụng tiếng Việt trong bối cảnh hội nhập quốc tế.
Câu 3.
Những lí lẽ và bằng chứng được tác giả đưa ra là:
- Lí lẽ 1: Ở Hàn Quốc, chữ nước ngoài không bao giờ được lấn át ngôn ngữ dân tộc.
- Bằng chứng: Quảng cáo thương mại không được đặt ở công sở, hội trường lớn, danh lam thắng cảnh; trên biển quảng cáo, chữ nước ngoài thường được viết nhỏ hơn, đặt bên dưới chữ Hàn Quốc.
- Lí lẽ 2: Việc sử dụng tiếng nước ngoài trong báo chí Hàn Quốc cũng có giới hạn nhất định.
- Bằng chứng: Ở Hàn Quốc, tiếng nước ngoài chỉ được sử dụng ở phần mục lục. Nhưng ở Việt Nam, tiếng nước ngoài lại được sử dụng ở mấy trang cuối để tóm tắt thông tin một số bài chính khiến người đọc trong nước bị thiệt mấy mấy trang thông tin.
Câu 4.
+ Thông tin khách quan: “Đi đâu, nhìn đâu cũng thấy nổi bật những bảng hiệu chữ Hàn Quốc.”.
+ Ý kiến chủ quan: “Phải chăng, đó cũng là thái độ tự trọng của một quốc gia khi mở cửa với bên ngoài, mà ta nên suy ngẫm.”.
Câu 5.
Cách lập luận của tác giả trong văn bản rất chặt chẽ, thuyết phục nhờ các yếu tố sau:
- Lí lẽ, dẫn chứng được đặt trong sự đối sánh giữa Hàn Quốc và Việt Nam, từ đó làm nổi bật sự khác biệt trong thái độ tôn trọng tiếng mẹ đẻ của hai dân tộc châu Á.
- Lí lẽ, dẫn chứng rõ ràng, thuyết phục, được đúc kết từ chính trải nghiệm của tác giả sau khi ở Hàn Quốc.
=> Tóm lại, cách lập luận trong văn bản logic, có sự kết hợp giữa dẫn chứng thực tế với quan điểm, trải nghiệm cá nhân, góp phần làm sáng tỏ vấn đề.
a) Với \(m = - 2\), phương trình (1) trở thành \(x^{2} + 2 x - 3 = 0.\)
Giải ra được \(x = 1 , x = - 3.\)
Vậy với \(m = - 2\) phương trình (1) có tập nghiệm là S={1;−3}\(\)
b) Ta có: \(\Delta = m^{2} - 4 m + 4 = \left(\right. m - 2 \left.\right)^{2} \geq 0 , \forall m\)
Do đó phương trình \(\left(\right. 1 \left.\right)\) luôn có hai nghiệm \(x_{1} ; x_{2}\) với mọi \(m\).
Áp dụng hệ thức Viète, ta có: \({}\begin{cases}x_1+x_2=m\\ x_1x_2=m-1\end{cases}\)
Biến đổi \(A = \frac{2 x_{1} x_{2} + 3}{x_{1}^{2} + x_{2}^{2} + 2 \left(\right. x_{1} x_{2} + 1 \left.\right)}\)
\(= \frac{2 x_{1} x_{2} + 3}{\left(\left(\right. x_{1} + x_{2} \left.\right)\right)^{2} + 2}\)
\(= \frac{2 \left(\right. m - 1 \left.\right) + 3}{m^{2} + 2}\)
\(= \frac{2 m + 1}{m^{2} + 2}\)
\(A = \frac{m^{2} + 2 - \left(\right. m - 1 \left.\right)^{2}}{m^{2} + 2} = 1 - \frac{\left(\right. m - 1 \left.\right)^{2}}{m^{2} + 2}\)
Lập luận chỉ ra \(A \leq 1\), dấu "=" xảy ra khi \(m = 1\).
Ta có: \(\left(\right. x^{2} - 1 \left.\right) \left(\right. x + 3 \left.\right) \left(\right. x + 5 \left.\right) = m\) (1)
\(\left(\right. x + 1 \left.\right) \left(\right. x + 3 \left.\right) \left(\right. x - 1 \left.\right) \left(\right. x + 5 \left.\right) = m\)
\(\left(\right. x^{2} + 4 x + 3 \left.\right) \left(\right. x^{2} + 4 x - 5 \left.\right) = m\) (2)
Đặt \(y = x^{4} + 4 x + 4 = \left(\right. x + 2 \left.\right)^{2} \geq 0\) với mọi \(x\).
Khi đó (2) có dạng: \(\left(\right. y - 1 \left.\right) \left(\right. y - 9 \left.\right) = m\) hay \(y^{2} - 10 y + 9 - m = 0\) (3)
Phương trình (1) có bốn nghiệm phân biệt tương đương với phương trình (3) có hai nghiệm dương phân biệt \(y_{1} > y_{2} > 0\) khi và chỉ khi
\({}\begin{cases}\Delta^{^{\prime}}=16+m>0\\ y_1+y_2=10>0\\ y_1y_2=9-m>0\end{cases}\) hay \(- 16 < m < 9\) (4)
Khi \(y_{1} ; y_{2}\) là hai nghiệm dương phân biệt của phương trình (3) thì phương trình (2) tương đương với:
\(x^{2} + 4 x + 4 - y_{1} = 0\) hoặc \(x^{2} + 4 x + 4 - y_{2} = 0\)
Gọi \(x_{1} , x_{2}\) là hai nghiệm phân biệt của phương trình: \(x^{2} + 4 x + 4 - y_{1} = 0\) (5)
Gọi \(x_{3} , x_{4}\) là hai nghiệm phân biệt của phương trình: \(x^{2} + 4 x + 4 - y_{2} = 0\) (6)
Áp dụng định lí Viète cho các phương trình (3), (5), (6) ta có:
\(\frac{1}{x_{1}} + \frac{1}{x_{2}} + \frac{1}{x_{3}} + \frac{1}{x_{4}}\)
\(= \frac{x_{1} + x_{2}}{x_{1} x_{2}} + \frac{x_{3} + x_{4}}{x_{3} x_{4}}\)
\(= \frac{- 4}{4 - y_{1}} + \frac{- 4}{4 - y_{2}}\)
\(\frac{4 \left(\right. y_{1} + y_{2} \left.\right) - 32}{16 - 4 \left(\right. y_{1} + y_{2} \left.\right) + y_{1} y_{2}}\)
\(= \frac{40 - 32}{16 - 40 + 9 - m}\)
\(= \frac{8}{- 15 - m} = - 1\)
Suy ra \(m = - 7\) (thỏa mãn)
Vậy m=−7 thì thỏa mãn đề bài
Gọi vận tốc của bạn Hoa lúc đi là \(x\) (km/h; \(x > 0\)).
Thời gian bạn Hoa đi từ nhà đến địa điểm A là \(\frac{24}{x}\) (giờ).
Thời gian bạn Hoa đi một nửa quãng đường lúc về là \(\frac{12}{x}\) (giờ).
Vận tốc của bạn Hoa đi một nửa quãng đường còn lại lúc về là \(x + 4\) (km/h).
Thời gian bạn Hoa đi nửa quãng đường còn lại lúc về nhà là \(\frac{12}{x + 4}\) (giờ).
Do thời gian về ít hơn thời gian đi là \(15\) phút \(\left(\right.\)đổi bằng \(\frac{1}{4}\) h\(\left.\right)\) nên ta có phương trình:
\(\frac{24}{x} - \frac{12}{x} - \frac{12}{x + 4} = \frac{1}{4}\)
\(\frac{12}{x} - \frac{12}{x + 4} = \frac{1}{4}\)
\(x^{2} + 4 x - 192 = 0\)
\(x = 12\) hoặc \(x = - 16\)
Ta thấy \(x = - 16\) không thỏa mãn.
Vậy vận tốc của bạn Hoa lúc đi là \(12\) km/h.
Với \(x > 0 ; x \neq 4 ; x \neq 9\) ta có:
\(P = \left(\right. \frac{4 \sqrt{x}}{\sqrt{x} + 2} + \frac{8 x}{4 - x} \left.\right) : \left(\right. \frac{\sqrt{x} - 1}{x - 2 \sqrt{x}} - \frac{2}{\sqrt{x}} \left.\right)\)
\(= \frac{4 \sqrt{x} . \left(\right. \sqrt{x} - 2 \left.\right) - 8 x}{\left(\right. \sqrt{x} - 2 \left.\right) \left(\right. \sqrt{x} + 2 \left.\right)} : \frac{\sqrt{x} - 1 - 2 \left(\right. \sqrt{x} - 2 \left.\right)}{\sqrt{x} \left(\right. \sqrt{x} - 2 \left.\right)}\)
\(= \frac{- 4 x - 8 \sqrt{x}}{\left(\right. \sqrt{x} - 2 \left.\right) \left(\right. \sqrt{x} + 2 \left.\right)} : \frac{- \sqrt{x} + 3}{\sqrt{x} \left(\right. \sqrt{x} - 2 \left.\right)}\)
\(= \frac{- 4 \sqrt{x} \left(\right. \sqrt{x} + 2 \left.\right)}{\left(\right. \sqrt{x} - 2 \left.\right) \left(\right. \sqrt{x} + 2 \left.\right)} . \frac{\sqrt{x} \left(\right. \sqrt{x} - 2 \left.\right)}{- \sqrt{x} + 3}\)
\(= \frac{- 4 x}{- \sqrt{x} + 3} = \frac{4 x}{\sqrt{x} - 3}\).
Vậy với \(x > 0 ; x \neq 4 ; x \neq 9\) thì P\(\) \(=\frac{4 x}{\sqrt{x} - 3}\).
a) Do \(M A\), \(M B\) là hai tiếp tuyến của đường tròn \(\left(\right. O \left.\right)\) nên \(M A ⊥ O A ; M B ⊥ O B\)
Suy ra \(\hat{M A O} = \hat{M B O} = 9 0^{\circ}\).
Gọi \(I\) là trung điểm của \(O M\) (học sinh tự vẽ thêm trên hình).
Xét tam giác \(M A O\) vuông tại \(A\), \(A I\) là trung tuyến ứng với cạnh huyền, ta có:
\(A I = M I = I O = \frac{1}{2} O M\) (1)
Xét tam giác \(M B O\) vuông tại \(B\), \(B I\) là trung tuyến ứng với cạnh huyền, ta có:
\(B I = M I = I O = \frac{1}{2} O M\) (2)
Từ (1) và (2) suy ra \(A I = M I = I O = B I\)
Vậy tứ giác \(M A O B\) nội tiếp đường tròn tâm \(I\), đường kính \(O M\).
b) Do \(M A\), \(M B\) là hai tiếp tuyến của đường tròn \(\left(\right. O \left.\right)\) nên \(M A = M B\);
Mà \(O A = O B = R\) nên \(M O\) là trung trực của đoạn thẳng \(A B\).
Suy ra \(M O ⊥ A B\) tại \(D\).
\(H\) là hình chiếu của \(O\) trên đường thẳng \(d\) nên \(H O ⊥ M H\).
Xét tam giác \(\Delta O D C\) và \(\Delta O H M\) có:
\(\hat{M O H}\) chung;
\(\hat{O D C} = \hat{O H M} = 9 0^{\circ}\)
Suy ra \(\Delta O D C \sim \Delta O H M\) (g.g) suy ra \(\frac{O D}{O H} = \frac{O C}{O M}\)
Hay \(O C . O H = O D . O M\).
Tương tự, chứng minh \(\Delta O D A \sim \Delta O A M\) suy ra \(O D . O M = O A^{2} = R^{2}\)
Hay \(O C . O H = R^{2}\)
c) Vì điểm \(O\) và đường thẳng \(d\) cố định nên \(H\) cố định do đó \(O H\) cố định và có độ dài không đổi suy ra \(C \in O H\) cố định (3)
Từ \(O C . O H = R^{2}\) ta có \(O C = \frac{R^{2}}{O H}\) không đổi (4)
Từ (3) và (4) suy ra điểm \(C\) cố định suy ra dây \(A B\) luôn đi qua điểm \(C\) cố định.
Vậy khi điểm \(M\) di chuyển trên đường thẳng \(d\) thì dây \(A B\) luôn đi qua một điểm cố định.
Để cây ăn quả phát triển tốt trong điều kiện khí hậu nóng và ít mưa, nhà vườn có thể áp dụng các biện pháp sau:
- Chọn giống cây phù hợp: Ưu tiên các giống cây chịu hạn tốt như xoài, điều, thanh long.
- Cải thiện đất trồng: Bổ sung chất hữu cơ, phân bón giữ ẩm tốt (như phân chuồng hoai mục, mùn cưa).
- Tưới nước hợp lí: Sử dụng hệ thống tưới nhỏ giọt hoặc tưới vào sáng sớm và chiều muộn để giảm bốc hơi.
- Phủ gốc giữ ẩm: Dùng rơm rạ, lá khô hoặc màng phủ nông nghiệp để hạn chế mất nước.
- Trồng cây chắn gió: Giúp giảm tốc độ gió, hạn chế mất nước từ lá.
- Cắt tỉa hợp lí: Giữ tán cây hợp lí để giảm thoát hơi nước nhưng vẫn đảm bảo quang hợp.
- Bước 1. Chọn cành chiết:
+ Chọn cành đã trưởng thành (lá có màu xanh đậm). Chọn cành ở ngoài tán, đường kính khoảng 1 - 2 cm, cành không có hoa, quả hay lộc non.
+ Cắt bỏ phần lá, cành không cần thiết, gây vướng khi thao tác.
- Bước 2. Khoanh vỏ:
+ Khoanh tròn vỏ cành chiết ở hai vị trí cách nhau khoảng 3 - 5 cm.
+ Dùng mũi dao tách bỏ phần vỏ đã khoanh. Cạo sạch, loại bỏ lớp vỏ trắng sát phần gỗ.
+ Phơi khô 2 - 3 ngày trước khi bó bầu (nếu có điều kiện).
- Bước 3. Xử lí cành chiết:
+ Bôi chất kích thích ra rễ vào vết cắt khoanh vỏ về phía ngọn (vì rễ sẽ mọc ra từ phần này).
- Bước 4. Bó cành chiết:
+ Viên tròn giá thể, đường kính gấp 10 lần đường kính cành.
+ Chia viên giá thể thành hai phần, đặt hai phần giá thể bao quanh vết khoanh vỏ và bó kín vị trí khoanh vỏ.
+ Dùng tấm nilon sinh học bọc giá thể và buộc cố định bằng dây mềm kín hai đầu để giữ ẩm.
- Bước 5. Cắt cành chiết:
+ Sau khi chiết cành 45 - 60 ngày, nếu quan sát thấy rễ mọc ra chuyển từ màu trắng sang màu nâu vàng, tiến hành cắt cành chiết sát phía dưới bầu giá thể.
+ Bỏ lớp nilon bọc giá thể và gom vào nơi quy định; cắt bỏ bớt cành, lá; trồng vào túi bầu mới và đặt trong nhà ươm cây hoặc nơi có giàn che nắng trong khoảng 30 ngày.