

Đinh Hoàng Trâm Anh
Giới thiệu về bản thân



































Ý kiến cho rằng "Đối với học sinh, kĩ năng sống không quan trọng như tri thức" là một quan điểm phiến diện và có phần thiển cận trong bối cảnh giáo dục hiện đại. Nếu tri thức được ví như nền tảng lý thuyết, bản đồ dẫn đường, thì kĩ năng sống chính là chiếc la bàn, đôi chân vững chãi giúp học sinh tự tin khám phá và ứng dụng những kiến thức đó vào thực tế cuộc sống. Việc xem nhẹ một trong hai yếu tố này sẽ tạo ra những cá nhân phát triển lệch lạc, khó có thể thích ứng và thành công trong một xã hội năng động và đầy biến đổi.
Trước hết, không thể phủ nhận vai trò cốt lõi của tri thức trong quá trình học tập và phát triển của học sinh. Tri thức cung cấp cho các em hệ thống thông tin, hiểu biết về thế giới tự nhiên, xã hội và con người. Nó là cơ sở để hình thành tư duy logic, khả năng phân tích, tổng hợp và giải quyết vấn đề. Một học sinh có nền tảng tri thức vững chắc sẽ có nhiều cơ hội hơn trong học tập, nghiên cứu và lựa chọn nghề nghiệp tương lai. Tri thức giúp các em hiểu được những quy luật vận hành của cuộc sống, từ đó xây dựng những giá trị và niềm tin đúng đắn.
Tuy nhiên, chỉ có tri thức thôi là chưa đủ để một học sinh trở thành một công dân toàn diện và thành công. Kĩ năng sống đóng vai trò như một cầu nối quan trọng giữa tri thức và thực tiễn. Nó bao gồm một loạt các khả năng thiết yếu giúp học sinh ứng phó hiệu quả với những thách thức và cơ hội trong cuộc sống hàng ngày. Đó là kĩ năng giao tiếp, làm việc nhóm, tư duy phản biện, giải quyết vấn đề, quản lý thời gian, tự nhận thức, kiểm soát cảm xúc và thích ứng với sự thay đổi.
Đối với học sinh, kĩ năng sống không chỉ là những khái niệm trừu tượng mà còn là những công cụ thực tế giúp các em hòa nhập tốt hơn với môi trường học đường và xã hội. Kĩ năng giao tiếp giúp các em xây dựng mối quan hệ tốt đẹp với bạn bè, thầy cô và những người xung quanh, tạo ra một môi trường học tập tích cực và hiệu quả. Kĩ năng làm việc nhóm giúp các em học cách hợp tác, chia sẻ trách nhiệm và phát huy sức mạnh tập thể trong các dự án học tập. Kĩ năng tư duy phản biện giúp các em không ngừng đặt câu hỏi, phân tích thông tin một cách khách quan và đưa ra những quyết định sáng suốt.
Hơn nữa, trong bối cảnh thế giới đang thay đổi nhanh chóng, với sự phát triển vượt bậc của khoa học công nghệ và sự toàn cầu hóa, kĩ năng sống càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Những kiến thức học được ở trường có thể nhanh chóng trở nên lỗi thời, nhưng những kĩ năng mềm như khả năng học hỏi suốt đời, thích ứng linh hoạt và giải quyết các vấn đề phức tạp sẽ luôn là hành trang quý giá giúp học sinh vững bước vào tương lai. Một người có kĩ năng sống tốt sẽ có khả năng tự học, tự tìm kiếm thông tin và tự giải quyết các tình huống khó khăn mà không cần sự giúp đỡ trực tiếp từ người khác.
Ngược lại, một học sinh chỉ chú trọng vào việc tích lũy tri thức mà bỏ qua việc rèn luyện kĩ năng sống sẽ gặp nhiều khó khăn trong việc ứng dụng những kiến thức đó vào thực tế. Các em có thể giỏi lý thuyết nhưng lại lúng túng trong giao tiếp, khó khăn trong việc làm việc nhóm hoặc thiếu khả năng tự chủ và giải quyết vấn đề. Điều này không chỉ hạn chế sự thành công của các em trong học tập và công việc sau này mà còn ảnh hưởng đến sự hòa nhập và hạnh phúc cá nhân.
Tóm lại, ý kiến xem nhẹ vai trò của kĩ năng sống so với tri thức đối với học sinh là một quan điểm sai lầm. Tri thức và kĩ năng sống là hai yếu tố không thể tách rời, chúng bổ trợ và tương tác lẫn nhau trong quá trình phát triển toàn diện của học sinh. Một nền giáo dục tiến bộ cần chú trọng đến việc trang bị cho học sinh cả kiến thức vững chắc và những kĩ năng sống thiết yếu, giúp các em trở thành những người vừa có năng lực chuyên môn vừa có khả năng thích ứng và đóng góp tích cực cho xã hội. Việc đầu tư vào cả tri thức và kĩ năng sống chính là đầu tư vào tương lai của mỗi cá nhân và của cả đất nước
Câu 1.
Văn bản tập trung bàn về sức mạnh và vai trò của kiên trì trong cuộc sống và quá trình đạt được thành công. Văn bản nhấn mạnh tầm quan trọng của sự bền bỉ, nỗ lực không ngừng và tinh thần không bỏ cuộc khi đối mặt với khó khăn và thử thách.
Câu 2.
Câu văn nêu luận điểm ở đoạn (2) là: "Kiên trì là cầu nối để thực hiện lí tưởng, là bến phà và là nấc thang dẫn đến thành công." Câu này khẳng định vai trò then chốt của sự kiên trì trong việc biến ước mơ thành hiện thực.
Câu 3.
a.
Phép liên kết trong đoạn văn này là "Tuy nhiên". Đây là phép liên kết tương phản, thể hiện sự đối lập giữa việc muốn từ bỏ và việc giữ vững lòng kiên trì.
b.
Phép liên kết trong đoạn văn này là "mà". Đây là phép liên kết tăng tiến, bổ sung thêm một yếu tố quan trọng khác của sự kiên trì bên cạnh sự kiên nhẫn và nhẫn nại.
Câu 4.
Cách mở đầu văn bản bằng việc định nghĩa "Kiên trì là một phẩm chất quan trọng trong cuộc sống mà chúng ta cần phải trau dồi và phát triển" có tác dụng:Nêu trực tiếp chủ đề chính: Giúp người đọc ngay lập tức xác định được nội dung trọng tâm của văn bản là về sự kiên trì.Khẳng định tầm quan trọng: Nhấn mạnh vai trò thiết yếu của kiên trì trong cuộc sống, thu hút sự chú ý của người đọc và tạo sự đồng cảm.Định hướng triển khai: Mở ra hướng phát triển của các đoạn văn tiếp theo, tập trung vào việc phân tích và làm rõ vai trò của sự kiên trì
a)Vì tam giác ABC cân nên góc ABC = góc ACB
=> góc B2 = góc C2
Vậy tam giác OBC cân tại O
b) Vì O là giao điểm tia phân giác CP và BQ
=> O là giao điẻm ba đường phân giác trong tam giác ABC
Do đó, O cách đều 3 cạnh của tam giác ABC
c) Ta có tam giác ABC cân tại A, AO là tia phân giác tại đỉnh A nên Ao đồng thời là trung tuyến và đường cao của tam giác ABC
Vậy đường thẳng AO đi qua trung điểm của đoạn thẳng BC và vuông góc với nó
d)Ta có: tam giác PBC = tam giác QCS (g.c.g)
=> CP = BQ
e) Theo cmt, suy ra AP = AQ
Vậy tam giác APQ cân tại A
a) tam giác OAD = tam giác OCD (c.g.c)
=> AD =BC
b) Do OA = OC, OB = OD
=> AB = CD
=> góc OBC = góc ODA (tam giác OAD = tam giác OCD)
=> tam giác ADE = tam giác CDE (c.g.c)
c) Theo cmt, tam giác ADE = tam giác CDE (c.g.c)
=> góc BOE = góc DOE
=> OE là tia phân giác góc xOy
a)Xét \(\Delta\)IOE và \(\Delta\)IFO lần lượt vuông tại E,F:
OI là cạnh chung.
\(\hat{E O I} = \hat{I O F} \left(\right. g t \left.\right)\)
=>\(\Delta\)OIE=\(\Delta\)OIF( cạnh huyền-góc nhọn kề)
b)Đặt K là giao điểm của EF và OM
Vì \(\Delta\)OIE=\(\Delta\)OIF => OE=OF.
Xét \(\Delta\)KEO và \(\Delta\)KFO có:
OE=OF(cmt)
OK là cạnh chung
\(\hat{E O I} = \hat{I O F} \left(\right. g t \left.\right)\)
=>\(\Delta\)OEK=\(\Delta\)OFK(c-g-c)
=> \(\hat{E K O} = \hat{F K O}\)
Lại có : \(\hat{E K O} + \hat{F K O} = 18 0^{0}\)
=> \(\hat{E K O} = \hat{F K O} = 18 0^{0} : 2 = 9 0^{0}\)
=> EF\(\bot\)OM
c)
Ta có:
OE=OF(cmt)
=> \(\Delta\)OEF cân ở O
Để \(\Delta\)OEF đều ở O thì \(\hat{E O F} = 6 0^{0} = > \hat{x O y} = 6 0^{0}\)
Vì góc BAC = 120 độ góc CAH = 60 độ
Do AH là đường phân giác góc BAC nên:
góc DAC = 1/2 góc BAC = 60 độ
=> góc DAC = góc CAH
=>AC là phân giác góc DAH
Khi đó IE = IH
DI là phân giác góc ADC nên:
IE = IK
Vậy IH = IK.
Xét tam giác DAH và tam giác DAK có
DAH=DAK(gt)
DHA=DKA=90
AD là cạnh chung
=>Tam giác DAH= Tam giác DAK(cạnh huyền-góc nhọn)
=>BH=CK(2 cạnh tương ứng)
rong kho tàng văn học Việt Nam hiện đại, Nam Cao là một trong những nhà văn hiện thực xuất sắc nhất, với ngòi bút sắc sảo và tấm lòng nhân đạo sâu sắc. Tác phẩm "Chí Phèo" không chỉ là bức tranh chân thực về cuộc sống khốn khổ của người nông dân nghèo trước Cách mạng tháng Tám mà còn khắc họa một cách ám ảnh nhân vật Chí Phèo - một điển hình cho sự tha hóa và bi kịch của con người trong xã hội cũ. Tôi đặc biệt yêu thích và ấn tượng sâu sắc với nhân vật này bởi sự phức tạp, tính cách độc đáo và số phận đầy bi thương của hắn.
Chí Phèo xuất hiện trong tác phẩm với một quá khứ lương thiện, hiền lành. Hắn là một đứa trẻ bị bỏ rơi, lớn lên trong sự cưu mang của những người nông dân nghèo khổ. Nam Cao đã phác họa những nét đẹp ban đầu trong tính cách của Chí: chất phác, khỏe mạnh và có những rung động tình cảm trong sáng với Thị Nở. Tuy nhiên, xã hội thực dân nửa phong kiến tàn bạo đã đẩy hắn vào con đường tha hóa. Chỉ vì một sự ghen tuông vô cớ của Bá Kiến, Chí Phèo bị đẩy vào tù, nơi hắn bị tước đoạt nhân phẩm, bị nhồi nhét những thói hư tật xấu của xã hội đen tối.
Sau khi ra tù, Chí Phèo đã hoàn toàn biến đổi. Vẻ ngoài của hắn trở nên dữ tợn với khuôn mặt "cày xới", những vết sẹo ngang dọc và tiếng chửi rủa thường trực. Hắn trở thành "con quỷ dữ" của làng Vũ Đại, một kẻ chuyên đi gây gổ, đâm thuê chém mướn, sống bằng sự cướp giật và nỗi sợ hãi của người khác. Nam Cao đã miêu tả một cách chân thực quá trình tha hóa nhân cách của Chí Phèo, từ một người nông dân lương thiện trở thành một kẻ lưu manh, mất hết ý thức về bản thân và giá trị cuộc sống. Tiếng chửi của Chí Phèo không chỉ là sự phản kháng mù quáng với xã hội mà còn là tiếng kêu cứu tuyệt vọng của một linh hồn bị tổn thương sâu sắc.
Tuy nhiên, ẩn sâu bên trong cái vỏ bọc hung hãn ấy, Chí Phèo vẫn còn sót lại những khao khát lương thiện. Cuộc gặp gỡ với Thị Nở là một bước ngoặt quan trọng trong cuộc đời hắn. Tình yêu thương mộc mạc, chân thành của Thị Nở đã khơi dậy trong Chí những cảm xúc ấm áp, những ước mơ giản dị về một mái ấm gia đình. Hình ảnh bát cháo hành của Thị Nở không chỉ là một món ăn mà còn là biểu tượng cho sự quan tâm, sẻ chia và khát vọng được sống như một con người đúng nghĩa của Chí. Khoảnh khắc ấy, Chí Phèo dường như đã tìm lại được phần người đã mất, hắn muốn "làm người lương thiện", muốn "làm bạn với mọi người".
Nhưng bi kịch thay, xã hội tàn nhẫn lại một lần nữa dập tắt ngọn lửa hy vọng vừa mới nhen nhóm trong lòng Chí. Sự từ chối phũ phàng của Thị Nở đã đẩy Chí Phèo vào tuyệt vọng cùng cực. Hắn nhận ra rằng cái "vết nhơ" Chí Phèo đã ăn sâu vào máu thịt, hắn không thể nào thoát khỏi quá khứ đen tối của mình. Trong cơn tuyệt vọng, Chí Phèo đã tìm đến cái chết như một sự giải thoát cuối cùng. Hành động giết Bá Kiến trước khi tự sát là một sự phản kháng quyết liệt, nhưng cũng là đỉnh điểm của sự bi kịch khi hắn nhận ra kẻ thù lớn nhất của mình chính là xã hội đã đẩy hắn đến bước đường cùng.
Phân tích nhân vật Chí Phèo, ta không chỉ thấy được số phận bi thảm của một cá nhân mà còn thấy được sự tố cáo mạnh mẽ của Nam Cao đối với xã hội thực dân nửa phong kiến bất công, tàn bạo. Chí Phèo là một nạn nhân điển hình của xã hội ấy, nơi con người bị chà đạp, bị tước đoạt nhân phẩm và bị đẩy đến bờ vực của sự tha hóa. Tuy nhiên, dù đã bị tha hóa đến tận cùng, trong sâu thẳm tâm hồn Chí Phèo vẫn còn ánh sáng của sự lương thiện, khát vọng được yêu thương và sống một cuộc đời tử tế. Điều này càng làm tăng thêm giá trị nhân đạo sâu sắc của tác phẩm.
Tóm lại, nhân vật Chí Phèo là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo và đầy ám ảnh của Nam Cao. Sự phức tạp trong tính cách, quá trình tha hóa đầy bi kịch và những khát vọng lương thiện cuối cùng của hắn đã để lại trong lòng người đọc những ấn tượng sâu sắc và những suy ngẫm day dứt về số phận con người trong xã hội cũ. Chí Phèo không chỉ là một nhân vật văn học mà còn là một biểu tượng cho sự đau khổ, sự phản kháng và khát vọng sống lương thiện của những người nông dân nghèo khổ Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám. Tôi yêu thích nhân vật này bởi sự chân thực, tính điển hình và giá trị nhân văn sâu sắc mà hắn mang lại cho tác phẩm.
Văn bản trên mang lại cho em thông điệp sâu sắc về sức mạnh thực sự của con người. Thông điệp này được thể hiện qua sự tương phản giữa sự kiêu hãnh về sức mạnh khoa học kỹ thuật của con người (qua con tàu Titanic) và sự bất lực của nó trước sức mạnh của thiên nhiên. Tuy nhiên, văn bản lại nhấn mạnh rằng sức mạnh và sự vĩ đại đích thực của con người không nằm ở khả năng chinh phục thiên nhiên mà nằm ở khả năng chế ngự bản thân, vượt qua sự ích kỷ và thể hiện tình yêu thương, sự hy sinh.
Câu nói của Mahatma Gandhi: "Sức mạnh vĩ đại nhất mà nhân loại có trong tay chính là tình yêu" có nghĩa là theo ông, tình yêu là nguồn sức mạnh lớn lao và hiệu quả nhất mà con người sở hữu. Nó không chỉ đơn thuần là tình cảm lãng mạn mà còn bao gồm sự trắc ẩn, lòng thấu hiểu, sự khoan dung và tinh thần bất bạo động.