Dương An Lộc

Giới thiệu về bản thân

Chào mừng bạn đến với trang cá nhân của Dương An Lộc
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
(Thường được cập nhật sau 1 giờ!)

câu 1: Thành công đến từ việc bạn biết chủ động trong mọi tình huống, mọi hoàn cảnh. Chính vì thế, chúng ta có thể khẳng định: chủ động có vai trò mấu chốt trong việc đưa con người đến thành công. Những người có tính chủ động là những người tự tin và biết mình cần làm gì trong cuộc sống. Họ theo đuổi đam mê bằng tất cả lòng nhiệt huyết và quyết tâm, không những thế họ còn thành công trên hầu hết mọi phương diện của cuộc sống, đặc biệt khi có cạnh tranh. Người có tính chủ động sẽ suy nghĩ, hành động độc lập, làm chủ được tình thế. Khi có vấn đề xảy ra trước hết họ nhìn nhận chính bản thân mình, tìm ra khó khăn để vượt qua. Tính chủ động không phải là làm bừa mà là dám nghĩ, dám nói và dám làm. Nếu bạn dám hành động, hành động có suy nghĩ, chủ động và kiên quyết thì mọi việc đều dẫn đến thành công. Trong một xã hội đang ngày càng phát triển, bạn cần phải chủ động để không bị tụt lùi. Ngay từ hôm nay bạn nên luyện tập cách sống chủ động cho mình bằng cách phát huy tính linh hoạt, thái độ tiếp nhận và cách ứng xử của bạn đối với các sự việc cũng như đối với người khác trong giao tiếp. Bạn đang sống và làm việc ở một môi trường phát triển, bạn không thể để người khác kiểm soát hay điều khiển mơ ước của bạn. Chủ động theo đuổi và lên kế hoạch cho mơ ước của chính bản thân là con đường duy nhất để bạn sống với chính mình. Khi bạn hăm hở bắt tay thực hiện nó, bạn sẽ tạo ra được một cuộc sống thú vị và có giá trị. Hành trình cuộc đời của con người, chính là khám phá ra những năng lực và khả năng của bản thân. Chỉ cần bạn luôn sống ở thể chủ động, thành công sẽ luôn đến với bạn. Hãy bình tĩnh, tự tin và quyết đoán để luôn là người chủ động trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống.

câu 2:

Nguyễn Trãi là một nhân vật toàn tài hiếm có của lịch sử trung đại Việt Nam. Ông là nhà quân sự, nhà văn hóa lớn với tấm lòng yêu nước thương dân trong bất cứ hoàn cảnh nào. Ông cũng là người đặt nền móng và mở đường cho sự phát triển của thơ ca tiếng Việt. Nhắc đến Nguyễn Trãi, người ta không thể không nhắc đến một tập thơ được xem là tác phẩm mở đầu cho văn học chữ Nôm - "Quốc âm thi tập". "Cảnh ngày hè" là một bài thơ tiêu biểu. Bài thơ là nỗi niềm và cảm xúc của Nguyễn Trãi trước bức tranh ngày hè.

"Cảnh ngày hè" là bài thơ thứ 43 trong 61 bài trong chùm thơ "Bảo kính cảnh giới" là một bài thơ hay của "Quốc âm thi tập". Bài thơ tả cảnh ngày hè, cho thấy tâm hồn Nguyễn Trãi chan chứa tình yêu thiên nhiên, yêu đời yêu, nhân dân, yêu đất nước.

Sau câu thơ đầu tiên là cảm xúc của nhà thơ trước bức tranh cảnh ngày hè. Mở đầu bài thơ là câu thơ sáu chữ với nhịp 1/2/3 chậm rãi: "Rồi hóng mát thuở ngày trường". Chữ "rồi" là điểm nhấn đặt ở đầu câu, gợi trạng thái con người nhàn nhã, không vướng bận điều gì. "Ngày trường" có nghĩa là ngày hè dài. Câu thơ mở ra tâm thế nhàn hạ, ung dung của Ức Trai trước cảnh ngày hè. Đó cũng là tư thế ung dung, nhàn hạ của con người trong văn học trung đại. Bức tranh ngày hè hiện lên qua hình ảnh ba loại cây đặc trưng của mùa hè. Mỗi loài cây đều được miêu tả bằng những tính từ chỉ màu sắc và những động từ mạnh:

"Hòe lục đùn đùn tán rợp giương
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương"

Cây hòe với màu xanh lục như cuộn lên từng khối biếc, từng chùm cứ như sinh sôi ngay trước mắt, cành lá xanh tươi tỏa rộng. Hoa lựu rừng rực sắc đỏ đồng loạt phun trào. Động từ "phun" diễn tả sức sống như bật ra, trào ra. Màu đỏ của hoa lựu như một nét rực rỡ trên nền xanh của lá. Điểm nhìn của nhà thơ từ tầng không tới hiên nhà tới tầng thấp là hoa sen để nhận ra sen hồng đã ngát mùi hương. "Tiễn" là ngát, là nức. Hương thơm tỏa ra khắp không gian, sức sống chất chứa từ bên trong đang phun trào. Thiên nhiên ở đây không tĩnh mà động, tưởng như sức sống bên trong đang trào ra: màu xanh của hòe, màu đỏ của lựu, màu hồng của sen đã được thôi thúc từ bên trong không kìm lại được mà tuôn trào hết lớp này đến lớp khác. Tất cả như hô ứng, đua nhau khoe sắc tỏa hương hợp thành vẻ toàn thực của mùa hè.

Bức tranh ngày hè rực rỡ sắc màu giờ đây còn rộn rã âm thanh. Đó là tiếng lao xao chợ cá làng chài vọng đến gợi sự đông đúc, nhộn nhịp với cuộc sống ấm no của con người: "Lao xao chợ cá làng ngư phủ". Nó có thể là một phiên chợ có thật nhưng rất có thể đó là những âm thanh vọng lên trong tâm tưởng nhà thơ khi hướng về cuộc sống. Đó là âm thanh cuộc sống nơi dân dã, nơi làng quê. Cái "lao xao" gọi sự ồn ào, náo nhiệt, gợi vẻ sầm uất của cuộc sống xung quanh, là những xôn xao vang lên giữa nhịp sống hài hòa trường cửu của vũ trụ,...

Vẫn bằng một cái nghiêng tai rất sầu, nhà thơ đón bắt được một âm thanh rất quen dắng dỏi trong chiều tà: "Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương". Nắng tắt, chiều tàn, màn đêm đang buông xuống, cho dù là chốn lầu tịch dương thì cũng khó lòng tránh khỏi cảm giác quạnh hiu, cô độc. Dường như ấn tượng ảm đạm của triều tà hoàn toàn xua tan khi nhạc ve dắng dỏi, là âm thanh mạnh mẽ, dứt khoát l, trầm bổng ngân vang trong cảm nhận của tác giả. Âm thanh ấy trong cảm nhận của tác giả như tiếng đàn. 

Và trong khoảnh khắc đẹp đẽ ấy, tiếng Ngu cầm trong tưởng tượng được cất lên:

"Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng,
Dân giàu đủ, khắp đòi phương"

Hai câu thơ kết sử dụng điển "Ngu cầm" kể câu chuyện về cây đàn của vua Ngu Thuấn ca ngợi nền thái bình Thịnh trị với niềm vui sống tự hào. Hai từ "dễ có" - lẽ ra nên có, nổi lên trong câu thơ khi sử dụng điển tích "Ngu cầm" là mong ước có được cây đàn vua Nghiêu, vua Thuấn. Đó là ước mong được hòa điệu, được san sẻ niềm vui sống trong cảnh thái bình nhân dân. Cao hơn là một niềm mong mỏi về một cuộc sống an lạc cho người dân khắp mọi phương trời được duy trì vĩnh viễn như thời vua Nghiêu, vua Thuấn. Có phải vì thế khi nghe kỹ tình thơ, ý thơ, ta nhận ra trong hai chữ "dễ có" một chút gì ưu tư, luyến tiếc và cả một chút ngậm ngùi. Những cảm xúc từ từ trở thành nét bất biến trong vẻ đẹp nhân cách lớn lao của Nguyễn Trãi được hậu thế muôn đời tôn quý, mới thấy cội nguồn vui sống của Nguyễn Trãi vẫn là cảnh quốc thái dân an. Chừng nào nhân dân chưa được thái bình thì ngày hè dẫu tưng bừng đến mấy thì niềm vui cũng không được trọn vẹn. Ước vọng ấy nâng tầm Nguyễn Trãi ngang tầm tư tưởng của một đấng quân vương. Cả bài thơ có tám câu, đến tận câu cuối chữ "dân" mới xuất hiện nhưng thực sự nó là cái nền chính, linh hồn bài thơ, thực sự là chìa khóa giải mã cho cái bất thường, cho cái dằng dặc của ngày hè.

Cả bài thơ tạo thành một liên tưởng thơ độc đáo với kết cấu đầu cuối tương ứng. Bài thơ có sự sáng tạo hình thức thơ thất ngôn xen lục ngôn tạo sự phá cách trong nhịp điệu, ngôn từ biểu cảm giàu sức gợi tài tình. Tất cả tạo nên một nhân cách nhà thơ ưu ái với dân, với nước. Nguyễn Trãi yêu thiên nhiên nhưng trên hết vẫn là tấm lòng của ông tha thiết với con người, với dân, với nước. Ước mơ đó, tấm lòng đó thể hiện tư tưởng thân dân của Nguyễn Trãi. Với ngày hôm nay nó vẫn mang ý nghĩa thẩm mỹ và nhân văn sâu sắc.

 

câu1: Thể thơ: thất ngôn bát cú Đường luật.

câu 2: Những hình ảnh nói về nét sinh hoạt hàng ngày đạm bạc, thanh cao của tác giả: ăn măng ,ăn trúc, đông ao giá , tắm hồ sen,... 

câu 3: 

– Biện pháp tu từ liệt kê: Một mai, một cuốc, một cần câu.

tác dụng : Nhấn mạnh: sự lựa chọn phương châm sống, cách ứng xử của tác giả – chọn lối sống tĩnh tại, an nhàn; vừa thể hiện sắc thái trào lộng, mỉa mai đối với cách sống ham danh vọng, phú quý… 

câu 4 

Quan niệm khôn – dại của tác giả: 

– Dại: “tìm nơi vắng vẻ” – nơi tĩnh tại của thiên nhiên, thảnh thơi của tâm hồn.

– Khôn: “đến chốn lao xao” – chốn cửa quyền bon chen, thủ đoạn sát phạt.

=> Đó là một cách nói ngược: khôn mà khôn dại, dại mà dại khôn của tác giả. 

câu 5: Cuộc sống hiện lên trong bài thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm mang đặc điểm giản dị, bình dị:
+ Ông như người nông dân tự lập với các công cụ như cuốc, cần câu.
+ Dù xung quanh có nhiều sự phức tạp, ông vẫn kiên trì với lối sống của mình.
+ Bữa ăn giản dị với măng trúc, giá đỗ, và nếp thể hiện sự sinh hoạt qua từng mùa xuân - hạ - thu - đông.

a) Phân loại nguồn lực phát triển kinh tế

- Căn cứ vào nguồn gốc, có các nguồn lực phát triển kinh tế:

+ Vị trí địa lí: vị trí địa lí tự nhiên. vị trí địa lí kinh tế chính trị, giao thông.

+ Tự nhiên: đất, khí hậu, nước, biển, sinh vật, khoáng sản.

+ Kinh tế - xã hội: dân số và nguồn lao động, vốn, thị trường, khoa học - kĩ thuật và công nghệ, thương hiệu quốc gia, lịch sử - văn hoá, đường lối chính sách.

- Căn cứ vào phạm vi lãnh thổ, có các loại nguồn lực phát triển kinh tế:

+ Nguồn lực trong nước: vị trí địa lí, tài nguyên thiên nhiên, nguồn lao động, nguồn vốn đầu tư, khoa học - công nghệ, lịch sử - văn hoá, hệ thống tài sản quốc gia, đường lối chính sách.

+ Nguồn lực nước ngoài: vốn đầu tư nước ngoài, lao động nước ngoài; tri thức, kinh nghiệm tổ chức và quản lí, khoa học - công nghệ.

b) Phân tích tác động của nguồn lực vị trí địa lí đến phát triển kinh tế

Vị trí địa lí tạo ra những thuận lợi hoặc khó khăn để trao đổi, tiếp cận, giao thoa hay cùng phát triển giữa các quốc gia với nhau:

- Thuận lợi:

+ Giao thương và hội nhập quốc tế: Vị trí địa lí gần các tuyến đường giao thông quốc tế (đường biển, đường bộ, hàng không) giúp giảm chi phí vận chuyển hàng hóa, đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu và tăng cường giao lưu kinh tế.

+ Tác động đến sự phát triển ngành kinh tế: kinh tế biển, kinh tế nông nghiệp, kinh tế công nghiệp,...

+ Thu hút các nhà đầu tư: Vị trí địa lí chiến lược, gần các trung tâm kinh tế lớn hoặc ở khu vực giao thương nhộn nhịp, sẽ hấp dẫn các nhà đầu tư trong và ngoài nước.

+ Điều kiện tự nhiên: quyết định kiểu khí hậu, tài nguyên phong phú,...

- Khó khăn:

+ Chịu ảnh hưởng của thiên tai.

+ Hạn chế xa trung tâm kinh tế lớn.

Ví dụ: Việt Nam có vị trí nằm ở rìa phía đông của bán đảo Đông Dương, gần trung tâm khu vực ĐNA, giáp biển => Thuận lợi giao lưu kinh tế với các nước trong khu vực và thế giới.

Tóm lại, trong xu thế hội nhập toàn cầu của nền kinh tế thế giới, vị trí địa lí là một nguồn lực để định hướng phát triển có lợi nhất trong phân công lao động toàn thế giới và xây dựng các mối quan hệ song phương hay đa phương của một quốc gia.


 

Các nhân tố kinh tế - xã hội có ảnh hưởng quan trọng tới sự phát triển và phân bố nông nghiệp:

- Dân cư và lao động (quy mô, cơ cấu, mật độ dân số,…): ảnh hưởng rất lớn đến thị trường tiêu thụ sản phẩm của ngành

Ví dụ: Ở Đồng bằng sông Cửu Long, lực lượng lao động nông nghiệp lớn, giàu kinh nghiệm canh tác lúa nước, giúp khu vực này trở thành vựa lúa lớn nhất Việt Nam.

- Khoa học - công nghệ: Tiến bộ khoa học - kĩ thuật trong nông nghiệp (cơ giới hóa, thủy lợi hóa, hóa hóc hóa, cách mạng xanh và công nghệ sinh học, ứng dụng cách mạng 4.0) tạo ra nhiều giống mới; tăng năng suất, chất lượng nông sản; sử dụng hiệu quả tài nguyên đất nước.

Ví dụ: Công nghệ tưới tiêu hiện đại và hệ thống nhà kính tại Nhật Bản giúp phát triển mạnh mẽ ngành trồng rau, hoa chất lượng cao.

- Cơ sở hạ tầng, vật chất kĩ thuật: Thúc đẩy sản xuất hàng hoá trong nông nghiệp; tăng cường liên kết trong sản xuất, chế biến và tiêu thụ nông sản.

Ví dụ: Các tuyến giao thông kết nối vùng sản xuất nông nghiệp lớn như Tây Nguyên với các cảng xuất khẩu (Cảng Quy Nhơn, Cảng TP.HCM) giúp tăng giá trị xuất khẩu cà phê.

- Chính sách phát triển nông nghiệp, vốn đầu tư và thị trường: Tác động đến phương hướng sản xuất, cơ cấu ngành, quy mô sản xuất; xác định các hình thức tổ chức lãnh thổ nông nghiệp; thúc đẩy nông nghiệp sản xuất hàng hoá.

+ Chính sách phát triển kinh tế nói chung, phát triển nông nghiệp nói riêng có ảnh hưởng lớn tới sản xuất nông nghiệp.

+ Vốn đầu tư tác động đến quy mô sản xuất, thúc đẩy sản xuất hàng hoá,...

+ Thị trường tiêu thụ (trong nước, ngoài nước) tác động tới giá cả nông sản, đến việc điều tiết sản xuất và ảnh hưởng chuyên môn hóa.

Ví dụ: Chính sách thủy lợi hóa và đầu tư giống lúa chất lượng cao của Chính phủ Việt Nam giúp tăng năng suất lúa tại Đồng bằng sông Hồng và Đồng bằng sông Cửu Long.