VŨ VIỆT HOÀNG

Giới thiệu về bản thân

Hãy miêu tả đôi chút về bản thân
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
(Thường được cập nhật sau 1 giờ!)

a. Giá trị của đất phù sa đối với sản xuất nông nghiệp và thủy sản ở nước ta:

  • Đối với nông nghiệp:

    • Đất phù sa có độ phì nhiêu cao, giàu dinh dưỡng, rất thích hợp để trồng cây lương thực (như lúa, ngô) và cây công nghiệp ngắn ngày.
    • Là nguồn đất chính ở các vùng đồng bằng lớn như Đồng bằng sông Hồng và Đồng bằng sông Cửu Long, đóng vai trò quan trọng trong sản xuất lương thực và đảm bảo an ninh lương thực quốc gia.
  • Đối với thủy sản:

    • Đất phù sa ở các vùng ven sông, ven biển tạo môi trường thuận lợi cho việc xây dựng các ao, hồ nuôi trồng thủy sản.
    • Hệ sinh thái phong phú và nguồn thức ăn tự nhiên từ đất phù sa giúp tăng năng suất và chất lượng thủy sản.

b. Hiện trạng và nguyên nhân thoái hóa đất ở nước ta:

  • Hiện trạng thoái hóa đất:

    • Đất bị bạc màu, giảm độ phì nhiêu, không còn khả năng sản xuất hiệu quả.
    • Xói mòn đất xảy ra nghiêm trọng ở các vùng đồi núi, làm mất lớp đất màu.
    • Sa mạc hóa đất ở một số khu vực, đặc biệt là ở vùng khô hạn như Ninh Thuận, Bình Thuận.
    • Ô nhiễm đất do sử dụng hóa chất trong nông nghiệp và công nghiệp.
  • Nguyên nhân thoái hóa đất:

    • Tự nhiên:

      • Xói mòn đất do mưa lớn và dòng chảy bề mặt.
      • Biến đổi khí hậu làm gia tăng hạn hán và sa mạc hóa.
    • Con người:

      • Canh tác nông nghiệp không bền vững: lạm dụng phân bón hóa học, thuốc trừ sâu, và khai thác đất quá mức.
      • Phá rừng, đốt nương làm rẫy dẫn đến mất lớp đất màu.
      • Quá trình đô thị hóa và công nghiệp hóa làm mất đất nông nghiệp và gây ô nhiễm đất.

Khác với thủ đoạn của bác phó may là vụng chèo khéo chống, chú thợ phụ đã dùng mánh khoé nịnh hót và tâng bốc là chính. Khi vừa mặc xong bộ lễ phục cho Giuốc-đanh, gã thợ phụ muốn xin tiền uống rượu nên khúm núm tôn xưng lão là ông lớn. Giuốc-đanh giật mình vì lần đầu tiên trong đời được gọi là ông lớn. Lão chưa dám tin ở tai mình, không biết có phải là nghe nhầm hay không nên hỏi lại cho chắc chắn. Chú thợ phụ lại càng tỏ vẻ lễ phép hơn : Bẩm, ông lớn ạ. Điều đó khiến cho Giuốc-đanh sướng lắm và cứ tưởng rằng hễ mặc lễ phục vào là nghiễm nhiên trở thành quý tộc: Ấy đấy, ăn mặc theo lối quý phái thì thế đấy Ị Còn cứ bo bo giữ kiểu cũ quần trưởng giả thì đời nào được gọi là “ông lớn”. Giuốc-đanh phóng thưởng cho chú thợ phụ: Đấy, ta thưởng về tiếng “ông lớn” đây này. Thấy lão đã mắc mưu, tay thợ phụ tiếp tục tâng bốc lão lên tận mây xanh, hết gọi là ông lớn, cụ lớn, rồi đến đức ông. Chúng ta hãy lắng nghe lời đối thoại giữa chú thợ phụ và con người mắc bệnh ảo tưởng Giuốc-đanh