TRẦN BẢO NGỌC

Giới thiệu về bản thân

Chào mừng bạn đến với trang cá nhân của TRẦN BẢO NGỌC
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
(Thường được cập nhật sau 1 giờ!)

Hàn Mặc Tử là một thi sĩ có phong cách thơ rất riêng biệt, độc đáo. Ông để lại cho đời nhiều tập thơ nổi tiếng như Gái Quê, Thơ Điên hay Chơi Giữa Mùa Trăng. Bài thơ "Mùa xuân chín" là một bài thơ tiêu biểu, góp phần làm nên tên tuổi của nhà thơ.

Tựa đề bài thơ đầy ấn tượng" Mùa xuân chín", ta nghe như có sự mềm mại, hương thoang thoảng của vị xuân rạo rực mà không kém phần đằm thắm, ý tứ chất chồng những tầng sâu ý nghĩa khiến ta tò mò muốn khám phá, thôi thúc ta đi sâu vào nội dung tác phẩm để khám phá nét "chín" của mùa xuân trong thơ Hàn Mặc Tử ra sao.

"Trong làn nắng ửng khói mơ tan

Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng

Sột soạt gió trêu tà áo biếc

Trên giàn thiên lý bóng xuân sang"

Bức tranh mùa xuân chốn thôn quê thật thanh bình, duyên dáng mà đằm thắm yêu thương. Trong làn nắng nhẹ của của bầu trời, làn khói xa như tan đi, tạo nên vẻ đẹp như mơ như thực, không quá chi tiết, chỉ đôi nét chấm phá nhưng khiến ta không khỏi xuyến xao trước khung trời đầy yên bình lúc này. Trên những mái nhà tranh nơi quê nghèo lấm tấm màu hoa thiên lý điểm tô, cơn gió khẽ đung đưa những chiếc lá xanh biếc tạo nên thứ âm thanh lạ lùng" sột soạt", tất cả đều quá đỗi nhẹ nhàng mà thân thương. Mùa xuân đang len lỏi vào cảnh vật, trên giàn thiên lý báo xuân về, mùa xuân đến, cây cỏ, thiên nhiên, đất trời, và lòng người như hòa quyện lấy nhau:

"Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời

Bao cô thôn nữ hát trên đồi;"

Vạn vật mang sức xuân, làn mưa xuân tưới thêm cho cỏ cây sức sống mới đầy xanh tươi "gợn tới trời" như đang đùa giỡn với nắng, với gió với mây. Tiếng hát đón xuân của bao cô gái thôn quê đầy tình tứ, mùa xuân đến khiến ai cũng vui tươi, phấn khởi, tâm hồn đầy trẻ trung, yêu đời. Giai điệu nhạc cất lên cùng lời ca:

" Ngày mai trong đám xuân xanh ấy

Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi."

Niềm vui xuân hoà cùng niềm vui của hạnh phúc lứa đôi, thế là ngày mai trong đám cô thôn nữ ấy, có người đi lấy chồng bỏ lại sau lưng những cuộc vui, có chút gì đó tiếc nuối đan xen trong niềm vui ấy. Mùa xuân điểm tô cho đời, kết nên quả ngọt cho tình yêu, mùa của niềm hạnh phúc tràn đầy.

"Tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi,

Hổn hển như lời của nước mây,

Thầm thĩ với ai ngồi dưới trúc,

Nghe ra ý vị và thơ ngây..."

Niềm yêu đời họa trong lời hát thơ ngây, trong sáng, tinh nghịch "tiếng ca vắt vẻo" trên lưng núi, hoà vào cảnh vật, âm vang mãi. Những âm thanh như đang chuyển động theo nhịp thời gian, "hổn hển" "thì thầm" với nhau đầy ý vị, thân thương. Tiếng thơ nghe sao khiến người bâng khuâng, xao xuyến đến lạ kỳ.

"Khách xa gặp lúc mùa xuân chín

Lòng trí bâng khuâng sực nhớ làng

Chị ấy năm nay còn gánh thóc

Dọc bờ sông trắng nắng chang chang"

Nếu ở khổ thơ đầu là hình ảnh cỏ cây tươi xanh thì đây chính là hình ảnh đối lập khi xuân chín, xuân đã không còn thơ mộng như khi vừa sang nữa, nó mang màu của nỗi tiếc nuối ngậm ngùi, mang màu của nắng gió thôn quê: "Dọc bờ sông trắng nắng chang chang". m "ang" cuối bài làm cho câu thơ mang tâm trạng mênh mang khó tả, như nỗi lòng thì nhân đang băn khoăn, trĩu nặng xót xa về thân phận người con gái:

" Chị ấy năm nay còn gánh thóc

Dọc bờ sông trắng nắng chang chang"

Nếu ngày xưa khi đang tuổi xuân thì, nhịp xuân sang cùng lòng bao cô gái ngân nga lời ca, tiếng hát chào mừng thì giờ đây khi xuân chín, xa rời xuân xanh năm nào, "chị ấy" giờ trở thành một người phụ nữ với bao nỗi lo toan. Trách nhiệm cuộc sống và công việc của người mẹ, người vợ thêm nặng, song, dù vất vả, nhọc nhằn vẫn ánh lên nét đẹp rạng ngời.

Bài thơ thật nhẹ nhàng, ngôn ngữ dù giản dị nhưng được nhà thơ chọn lọc rất tinh tế. Mỗi tiếng thơ thốt lên là cả một bầu trời thương yêu vừa mang nỗi thương cảm vừa mang nỗi nhớ mênh mang chốn quê nhà vất vả, gian nan. Với ngôn ngữ kết tinh cùng tấm lòng hồn hậu của thi nhân, Hàn Mạc Tử đã viết nên một "mùa xuân chín" vẹn tròn, đầy đặn, thiết tha.

 

Câu chuyện “Ba đồng một mớ mộng mơ” của Nguyễn Ngọc Tư để lại trong tôi nhiều cảm xúc vừa xót xa, vừa chua chát. Truyện phản ánh một thực tế khắc nghiệt: giữa cuộc sống nghèo khó, những ước mơ và tình cảm đôi khi bị lấn át bởi nhu cầu vật chất. Nhân vật “chị” mang trong mình sự mộng mơ, luôn khao khát tình cảm và cái đẹp, nhưng cuối cùng lại nhận ra rằng thực tế không như chị tưởng. Hình ảnh thằng bé tàn tật với “ánh mắt sáng quắc” nhưng chỉ có thể thốt lên “TIỀN!” là một khoảnh khắc đầy ám ảnh, khiến chị và cả người đọc giật mình tỉnh mộng. Câu chuyện không chỉ nói về sự nghèo đói mà còn đặt ra câu hỏi: liệu con người có thể sống chỉ bằng những điều lãng mạn khi mà cơm áo gạo tiền vẫn là gánh nặng hàng ngày? Giọng văn trầm buồn nhưng sắc sảo của Nguyễn Ngọc Tư làm nổi bật nỗi cay đắng khi ước mơ đối diện với hiện thực, khiến người đọc không khỏi day dứt và suy ngẫm.

Cụm từ “ánh mắt sáng quắc” trong câu văn có hiện tượng phá vỡ ngôn ngữ thông thường vì nó tạo ra một sự đối lập mạnh mẽ giữa hình ảnh của ánh sáng và bối cảnh tối tăm, u ám của căn nhà. Điều này có tác dụng đặc biệt trong việc nhấn mạnh sức sống kỳ lạ toát ra từ đôi mắt của thằng bé – một đứa trẻ gầy gò, bệnh tật nhưng vẫn mang trong mình một sự hiện diện đầy mãnh liệt.
 

Tác dụng của hiện tượng này

 

1 Tạo điểm nhấn thị giác: Trong không gian mờ tối của căn nhà, đôi mắt của thằng bé trở thành thứ duy nhất nổi bật, thu hút toàn bộ sự chú ý của nhân vật “chị” ngay từ cái nhìn đầu tiên

 

2.Thể hiện sự đối lập giữa thể xác và tinh thần: Dù thằng bé có thân hình gầy guộc, yếu ớt, nhưng đôi mắt lại tràn đầy sức sống, như thể hiện một khao khát mãnh liệt về điều gì đó – có thể là sự kết nối, có thể là hy vọng mong manh trong nghèo khó.

 

3.Gợi cảm giác ám ảnh: Cụm từ “sáng quắc” thường gợi liên tưởng đến ánh nhìn sắc bén, mạnh mẽ, thậm chí có phần dữ dội. Trong hoàn cảnh này, nó tạo nên một cảm giác day dứt, khiến người đọc khó quên hình ảnh thằng bé – một sinh linh nhỏ bé nhưng có ánh mắt như muốn xuyên thấu người khác, như đang cất lên một tiếng kêu vô thanh.

 

Như vậy, bằng cách phá vỡ ngôn ngữ thông thường, Nguyễn Ngọc Tư không chỉ làm nổi bật hình ảnh thằng bé mà còn khéo léo khắc họa bi kịch của nó: một cơ thể kiệt quệ nhưng một đôi mắt vẫn cháy lên những khát vọng không lời.

 

 

 

Chi tiết khiến tôi ấn tượng nhất trong truyện là khoảnh khắc thằng bé tàn tật cố gắng nói ra một từ duy nhất – “TIỀN!”.

 

Chi tiết này gây ấn tượng mạnh vì nó phá vỡ hoàn toàn sự mộng mơ của nhân vật “chị”. Chị mong chờ một điều gì đó đầy cảm xúc từ thằng bé, một lời nói thể hiện sự lưu luyến hay tình cảm. Nhưng thực tế lại quá phũ phàng: giữa nghèo đói và khổ cực, thứ quan trọng nhất vẫn là tiền.

 

Khoảnh khắc ấy không chỉ khiến chị bàng hoàng mà còn khiến người đọc giật mình nhận ra sự nghiệt ngã của cuộc sống. Nó cho thấy đôi khi, dù ta khao khát tình cảm, sự kết nối con người, nhưng thực tế vẫn buộc ta đối diện với những nhu cầu vật chất trước tiên. Chi tiết này đánh thức chị khỏi những giấc mộng đẹp, giống như câu kết đầy chua xót: “Biết là đời giờ ô trọc, nhưng chị thích mua vé đi tàu mơ mộng, không hay giờ tàu đó cũng chở vịt, gà… mất rồi.”