VŨ TỐ THIÊN

Giới thiệu về bản thân

Chào mừng bạn đến với trang cá nhân của VŨ TỐ THIÊN
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
(Thường được cập nhật sau 1 giờ!)

d(D,(SBM)) = a/(6^(1/2))

Chủ tịch Hồ Chí Minh vị cha già kính yêu của dân tộc Việt Nam đã cống hiến trọn đời mình vì sự nghiệp giải phóng đất nước ta. Bác Hồ là người có công lao to lớn đối với đất nước và dân tộc Việt Nam. Bác ra đi để lại niềm tiếc thương chung cho nhân loại. Bao nhiêu năm kể từ ngày Bác mất, đồng bào ta vẫn tưởng nhớ đến Người với những tình cảm chân thành nhất. Người là nguồn cảm hứng bất tận cho các nhà thơ, nhà văn thể hiện tài năng trong các tác phẩm của mình. Có thể nói, Bác chính là hình ảnh đẹp nhất, ngời sáng nhất trong thơ ca Việt Nam. Không ít tác phẩm viết về Người, viết về những cuộc viếng thăm, gặp gỡ Người, nhưng có lẽ, cảm xúc nhất trong những tác phẩm đó là “Viếng lăng Bác” của nhà thơ Viễn Phương. Bài thơ là nỗi niềm của một người con ở tận miền Nam xa xôi được trở ra thăm Bác sau ngày Bác đi xa.

Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác

[…]

Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này

Vào năm 1976, sau khi đất nước ta được hoàn toàn giải phóng, lăng Bác được xây dựng và khánh thành. Nhà thơ Viễn Phương, một người con miền Nam, đã đến thăm lăng Bác và trong trạng thái cảm xúc dâng trào, ông đã viết bài thơ thể hiện tình cảm chân thành của hàng triệu người con miền Nam dành cho Bác. Bài thơ này rất đặc sắc và giàu ý nghĩa, làm cho người đọc cảm thấy xúc động. Hai khổ thơ đầu tiên thể hiện cảm xúc ban đầu của nhà thơ khi được đến gần với người cha thân yêu của dân tộc. Những hình ảnh ẩn dụ sâu sắc và ngôn ngữ bình dị nhưng tinh tế đã khiến cho đoạn thơ này để lại trong lòng người đọc những cảm xúc mạnh mẽ. Hai khổ thơ cuối cùng là những nốt nhạc du dương, trầm bổng, và réo rắt như tấm lòng yêu mến của nhà thơ với Hồ Chủ Tịch. Câu thơ ẩn dụ và ngôn từ đặc sắc, bình dị nhưng giàu sức gợi đã đánh thức trong lòng người đọc những cảm xúc sâu sắc và đáng quý. Bài thơ được phân chia theo bố cục thời gian, và hai khổ thơ đầu tiên miêu tả cảm xúc của tác giả khi nhìn thấy lăng Bác từ xa.

Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác

Mặc dù câu thơ đầu tiên rất ngắn nhưng nó chứa đựng lời tâm sự chân thành của nhà thơ cũng như hàng triệu người con miền Nam. Tiếng "con" than thiết được dùng để thể hiện lòng kính yêu sâu sắc của nhà thơ đối với Bác, người được coi như là một vị cha già của dân tộc và gần gũi với người dân. "Con ở miền Nam" thể hiện sự tự hào cũng như nỗi đau của miền Nam - một vùng đất gian khổ và anh hùng, đã đi trước và đóng góp nhiều cho đại gia đình Việt Nam. Nhà thơ mong muốn được đến thăm Bác sau khi đất nước được giải phóng, nhưng đáng tiếc, Bác đã ra đi. Do đó, nhà thơ đã sử dụng từ "thăm" thay cho "viếng" để bày tỏ sự tin tưởng rằng Bác sẽ sống mãi.

Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát

Ôi hàng tre xanh xanh Việt Nam

Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng

Hình ảnh hiện lên trước mắt nhà thơ là hình ảnh hàng tre xanh tươi trước lăng Bác. Cây tre là biểu tượng cho đức tính kiên trung, kiên cường nhưng giản dị mà cao quý của con người Việt Nam và nó đã để lại trong lòng tác giả ấn tượng mạnh trước khi vào lăng. Cây tre từ bao đời nay là một dấu ấn đặc biệt của dân tộc ta. Bóng nó đã che mát biết bao thế hệ và nó là hiện thân của những phẩm chất của dân tộc ta: dẻo dai, đoàn kết, kiên cường, bền bỉ. Ở Bác tác giả nhìn thấy tất cả những gì mà dân tộc Việt Nam có trong đó có biểu tượng xanh tươi của sự sống và ý chí kiên cường hiên ngang trước nghịch cảnh. Dân tộc ta thực sự có một sức sống mãnh liệt, bất chấp những thử thách khắc nghiệt của thiên nhiên và lịch sử, chúng tôi kiên định kháng chiến và kiên quyết quyết tâm không bị gián đoạn. Hàng tre đứng đó, bên lăng Bác, như lời ru đưa Người vào giấc ngủ, mãi mãi gắn với Người và với lòng kính trọng muôn đời của nhân dân Việt Nam đối với Người. Khi tác giả đến gần lăng và đứng vào hàng người để tỏ lòng kính trọng, những cảm xúc mới tràn ngập trong lòng tác giả.

Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng

Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ

Hai câu thơ sống động với nhiều hình ảnh gợi cảm đã được tạo ra bằng cách kết hợp giữa những hình ảnh thực và hình ảnh ẩn dụ, tạo nên một bức tranh sóng đôi. Mặt trời thực hiện của tự nhiên và của tất cả các loài đã trôi qua trên một lăng mộ, chiếu sáng cho tất cả mọi người và mang lại sự sống cho thế giới. Từ mặt trời thực đó, một mặt trời ẩn dụ khác xuất hiện trong lăng mộ màu đỏ rực. Bác Hồ nằm trong lăng mộ với ánh sáng đỏ xung quanh như một mặt trời. Bác tồn tại mãi mãi trong trái tim mỗi người dân Việt Nam như sự tồn tại của một mặt trời thực sự. Bác soi sáng con đường cho dân tộc ta đi, cống hiến cả cuộc đời cho sự nghiệp giành độc lập của Tổ quốc. Bác giúp đưa dân tộc ta thoát khỏi kiếp sống nô lệ, trở thành những con người tự do để bây giờ được hạnh phúc. Công lao của Bác đối với dân tộc ta không kém phần to lớn như mặt trời, không thể đong đếm được. Bác là một mặt trời. Mặt trời đang tỏa sáng trên bầu trời, tượng trưng cho nguồn năng lượng, nguồn ánh sáng và nguồn sống, không luôn luôn trọn vẹn và ấm áp. Vầng mặt trời đó có thể bị che khuất bởi bóng tối. Nhưng vầng mặt trời của Bác Hồ thì mãi mãi rực rỡ, là nguồn nhiệt và ánh sáng, chiếu sáng đường đi cho người dân Việt Nam. Ngày hôm nay có hai mặt trời chiếu rọi trên con đường của chúng ta: một mặt trời tỏa sáng bên ngoài, một mặt trời tỏa sáng trong tâm hồn... Giống như mặt trời kia, Bác Hồ cũng thuộc về vĩnh cửu và sẽ sống mãi trong trái tim mỗi người dân Việt Nam.

Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ

Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân…

Cùng với mặt trời đi qua trên lăng, ngày ngày dòng người vẫn đi qua lăng trong thương nhớ. Điệp ngữ “ngày ngày” ý nói rằng nhân dân ta mãi luôn ghi nhớ công lao to lớn của Bác, mãi mãi là như vậy. Nhịp thơ của đoạn chậm, diễn tả đúng tâm trạng khi đứng xếp hàng trước lăng chờ đến lượt vào, ngậm ngùi tưởng nhớ đến Bác đã khuất. Tuy vậy, nhịp thơ chầm chậm như bước chân người đi trong cuộc tưởng niệm mà sao câu thơ vẫn không buồn? Phải rồi. Chúng ta không làm cái việc tưởng niệm bình thường với Bác như một người đã khuất. Dòng người đang đi đây là đang đi trong cuộc hành trình ngợi ca vinh quang của Bác. Và tràng hoa vinh quang này không phải được kết bằng những bông hoa bình thường như mọi tràng hoa vinh hiển khác trên đời đâu. Tràng hoa đây là một hình ảnh ẩn dụ của tác giả, đó chính là những đóa hoa thật sự của đời, là đàn con mà Bác đã cố công tạo nên suốt bảy mươi chín mùa xuân Bác sống trên đời. Những bông hoa trong vườn Bác nay đã lớn lên, nở rộ ngát hương kính dâng lên Bác. Vào bên trong lăng Bác, thấy Bác đang nằm đó, nhà thơ lại một lần nữa cố giấu tiếng nấc nghẹn ngào:

Bác nằm trong giấc ngủ bình yên

Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền

Khung cảnh bên trong lăng thật êm dịu, thanh bình. Lúc này, trước mặt mọi người chỉ có hình ảnh Bác. Bác nằm đó trong giấc ngủ vĩnh hằng. Bác mất thật rồi sao? Không đâu. Bác chỉ nằm đó ngủ thôi, Bác chỉ ngủ thôi mà! Suốt bảy mươi chín năm cống hiến cho đất nước, bây giờ đất nước đã bình yên, Bác phải được nghỉ ngơi chứ. Bao quanh giấc ngủ của Bác là một “vầng trăng sáng dịu hiền”. Đó là hình ảnh ẩn dụ cho những năm tháng làm việc của Bác, lúc nào cũng có vầng trăng bên cạnh bầu bạn. Từ giữa chốn tù đày, đến “cảnh khuya” núi rừng Việt Bắc, rồi “nguyên tiêu”… Tuy vậy, Bác chưa bao giờ thảnh thơi để ngắm trăng đúng nghĩa. Khi thì “trong tù không rượu cũng không hoa”, khi thì “việc quân đang bận”. Chỉ có bây giờ, trong giấc ngủ yên, vầng trăng ấy mới thật sự là vầng trăng yên bình, để Bác nghỉ ngơi và ngắm. Trăng dịu hiền, soi sáng hình ảnh Bác. Nhìn Bác ngủ ở đấy thật bình yên, nhưng có một sự thật dù đau lòng cách mấy ta vẫn phải chấp nhận: Bác đã thật sự ra đi mãi mãi.

Vẫn biết trời xanh là mãi mãi

Mà sao nghe nhói ở trong tim!

Một trời xanh bao la kéo dài vô tận, không bao giờ chấm dứt. Dù tâm trí luôn yên tĩnh rằng Bác vẫn còn sống, vẫn theo dõi đất nước như màu xanh thanh bình trên bầu trời độc lập, nhưng trái tim ta vẫn đau đớn vì một sự thật đau lòng. Một từ "nhói" của nhà thơ nói lên nỗi đau, nỗi đau vượt lên mọi lý trí, mọi lập luận. Bác hiện diện trên mỗi miền đất, mỗi thành tựu, mỗi cá nhân của đất nước này. Nhưng Bác đã mất, chúng ta không còn Bác ở đây. Thiếu vắng Bác, liệu có thể được bù đắp? Chúng ta tiếc thương Bác, nhớ về Bác như một cái gì đó vĩ đại, không thể xóa nhòa. Dù Bác đã mất, những gì Bác đã làm vẫn sẽ ở lại trong tâm hồn, hình ảnh Bác sẽ mãi sống trong trái tim mỗi người dân Việt Nam. Cuối cùng, dù rất buồn, chúng ta phải rời xa lăng Bác để trở về. Khổ thơ cuối cùng như một lời chia tay đầy xúc động:

Mai về miền Nam thương trào nước mắt

Ngày mai phải rời xa Bác rồi.

Một tiếng “thương của miền Nam” lại vang lên, gợi về miền đất xa xôi của Tổ quốc, một nơi từng có vị trí sâu sắc trong trái tim người. Một tiếng “thương” ấy là yêu, là biết ơn, là kính trọng cuộc đời cao thượng, vĩ đại của Người. Đó là tiếng thương của nỗi đau xót khi mất Bác. Thương Bác lắm, nước mắt trào ra, thật đúng là tình thương của người Việt Nam, vô bờ bến và rất thật. Viễn Phương không thể nào ngăn được nữa, để cho tình cảm theo dòng nước mắt tuôn trào, dâng lên cao và tha thiết nhất “Mai về miền Nam thương trào nước mắt”. Chỉ nghĩ đến việc về miền Nam, tác giả cũng “tuôn trào nước mắt” luyến tiếc khi chia tay bịn rịn không muốn xa nơi Bác an nghỉ. Ở câu thơ này tác giả không sử dụng nghệ thuật nào, chỉ là lời nói giản dị, là tình thương sâu lắng tự tấm lòng nhưng lại làm cho ta xúc động. Tác giả thay mặt cho nhân dân miền nam bày tỏ niềm tiếc thương vô hạn với vị cha già dân tộc. Câu nói giản dị ấy làm người đọc thêm hiểu và đồng cảm với cảm xúc Viễn Phương, bởi lời nói đó đều xuất phát từ muôn triệu trái tim bé nhỏ cùng chung nỗi đau không khác gì tác giả. Được gần bác dù chỉ trong phút giây nhưng không bao giờ tác giả muốn xa bác vì Người ấm áp, rộng lớn quá. Ước nguyện thành kính của tác giả cũng là mong ước nguyện chung của những người đã hoặc chưa một lần gặp Bác. 

Muốn làm con chim hót quanh lăng

Bác Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây

Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này

Cùng với nỗi niềm yêu thương vô hạn, tác giả nói lên muôn vàn lời tự nguyện. Điệp ngữ “muốn làm” khẳng định mạnh mẽ những ước nguyện ấy. Ước chi ta có thể biến hình thành những gì thân yêu quanh nơi Bác ngủ để mãi mãi được chiêm ngưỡng Bác, cuộc đời và tâm hồn của Bác, để bày tỏ lòng ta với Bác. Một con chim nhỏ góp tiếng hót làm vui những bình minh của Bác, một đóa hoa góp mùi hương làm thơm không gian quanh Bác hay một cây tre trong hàng tre xanh xanh Việt Nam tỏa bóng mát dịu dàng quê hương của Bác, tất cả đều làm Bác vui và ngủ an giấc hơn. Đây cũng chính là nguyện ước chân thành, sâu sắc của hàng triệu con tim người Việt sau một lần ra thăm lăng Bác. Bác ơi! Bác hãy ngủ lại bình yên nhé, chúng cháu về miền Nam tiếp tục xây dựng Tổ quốc từ nền móng Bác đã tạo ra đây! Câu thơ trầm xuống để kết thúc, ngừng lặng toàn bài. Bài thơ Viếng lăng Bác có nhiều điểm nghệ thuật rất đặc sắc, giúp biểu hiện thành công thêm về những giá trị nội dung. Bài thơ viết theo thể tám chữ, trong có có xen một vài câu bảy và chín chữ. Nhiều hình ảnh trong bài thơ lấy từ ngoài đời thực đã được ẩn dụ, trở thành một cách thể hiện cảm xúc thành kính của tác giả. Nhịp thơ của bài linh hoạt, lúc nhanh là biểu hiện cho ước nguyện đền đáp công ơn Bác, lúc chậm là lúc thể hiện lòng thành kính với Bác. Giọng điệu của bài trang trọng, tha thiết, ngôn ngữ thơ bình dị mà cô đúc.

Bằng những từ ngữ và lời lẽ chân thành, giàu cảm xúc, nhà thơ Viễn Phương đã bày tỏ được niềm xúc động cùng lòng biết ơn sâu sắc đến Bác trong một dịp ra miền Bắc viếng lăng Bác. Bài thơ như một tiếng nói chung của toàn thể nhân dân Việt Nam, biểu lộ niềm đau xót khi thấy Bác kính yêu ra đi. Bài thơ như một khúc ca Ngàn vàng ca ngợi Bác Hồ, thể hiện một tình cảm, một tình cảm của chính nhà thơ Viễn Phương đối với Bác Hồ. Đã nhiều năm trôi qua nhưng bài thơ vẫn giữ nguyên giá trị tốt đẹp ban đầu và để lại ấn tượng trong lòng nhiều thế hệ người đọc.

Câu chuyện ‘Ba đồng một mớ mộng mơ’ là một tác phẩm đầy cảm xúc, vừa sâu sắc vừa gần gũi. Nguyễn Ngọc Tư không chỉ khắc họa sự đối lập giữa mơ mộng và thực tế mà còn gợi mở những bài học nhân sinh ý nghĩa. Đọc tác phẩm, ta không chỉ cảm thông với nhân vật chị mà còn suy ngẫm về chính mình trong cuộc hành trình tìm kiếm ý nghĩa và giá trị cuộc sống. Dù có đôi lúc lý tưởng bị hiện thực làm tổn thương, nhưng lòng nhân ái và sự sẻ chia vẫn là nguồn sáng để con người vượt qua những thử thách cam go.

Hiện tượng phá vỡ ngôn ngữ thông thường trong cụm từ "ánh mắt sáng quắc" tạo ra sự mạnh mẽ, hình ảnh đặc biệt và độc đáo trong câu văn. Dưới đây là phân tích về tác dụng của hiện tượng này:

1.Tạo ra hình ảnh sắc nét và gây ấn tượng mạnh mẽ: Thông thường, "ánh mắt sáng" chỉ là cách diễn đạt thông thường về ánh sáng phát ra từ mắt. Tuy nhiên, khi kết hợp với từ "quắc", nó tạo ra một hình ảnh mạnh mẽ và đặc biệt hơn. "Quắc" thường được sử dụng để miêu tả sự sáng chói hoặc mạnh mẽ, tạo ra cảm giác nhấn mạnh và gây ấn tượng mạnh mẽ cho người đọc.

2.Tạo ra một hình ảnh hấp dẫn và bí ẩn: Việc sử dụng ngôn ngữ không thông thường tạo ra một hình ảnh độc đáo và hấp dẫn. Cụm từ "ánh mắt sáng quắc" có thể gợi lên hình ảnh của một đối tượng bí ẩn, hoặc tạo ra một cảm giác kỳ bí và huyền bí. Điều này giúp tạo ra một không khí huyền bí và kích thích sự tò mò của độc giả.

3.Tạo ra sự tiếp xúc giữa ngôn ngữ và cảm xúc: Việc sử dụng từ ngữ không thông thường như "quắc" có thể kích thích sự phản ứng cảm xúc của độc giả, khiến họ cảm thấy bất ngờ hoặc thích thú. Điều này tạo ra một trải nghiệm đọc độc đáo và đặc biệt, giúp câu chuyện trở nên sống động và hấp dẫn hơn

Như vậy, việc sử dụng ngôn ngữ không thông thường trong cụm từ "ánh mắt sáng quắc" tạo ra một sự tươi mới và sức hút đặc biệt trong văn bản, góp phần làm nổi bật hình ảnh và cảm xúc trong tâm trí của độc giả.

Trong bài đọc, chi tiết mà em ấn tượng nhất là cảnh một đứa trẻ khuyết tật, với ánh mắt sáng quắc, nắm chặt tay người phụ nữ chính là điều mà em không thể quên.

1.Ấn tượng về sự đặc biệt và rõ nét của hình ảnh: Việc sử dụng từ ngữ mạnh mẽ và mô tả chi tiết đã tạo ra một hình ảnh đặc biệt và rõ ràng trong tâm trí của em. Ánh mắt sáng quắc của đứa trẻ không chỉ là một hình ảnh đẹp mắt mà còn là biểu tượng cho sự quyết tâm và niềm hy vọng của một tâm hồn trong tình trạng khó khăn.

2.Tạo ra sự đồng cảm và chia sẻ: Chi tiết này tạo ra một cảm giác sâu sắc về sự đau lòng và đồng cảm với những người gặp khó khăn trong cuộc sống. Ánh mắt sáng quắc của đứa trẻ là biểu tượng cho niềm hy vọng và ý chí sống, làm cho em cảm nhận được tình cảm chân thành và lòng nhân ái.

3.Sự hiểu biết và chấp nhận: Phụ nữ trong truyện đã không chỉ nhìn nhận và chấp nhận đứa trẻ với tình trạng của mình mà còn tìm cách gần gũi và chia sẻ tình thương. Điều này cho thấy sự đồng cảm và lòng nhân ái của con người, và gợi lên sự đáng quý của mỗi cá nhân trong xã hội.

Với những lí giải trên, chi tiết về ánh mắt sáng quắc của đứa trẻ đã tạo ra ấn tượng mạnh mẽ và gây cảm xúc sâu sắc trong em, làm cho em hiểu được giá trị của sự đồng cảm và lòng nhân ái trong cuộc sống.