Nguyễn Thị Mai Phương

Giới thiệu về bản thân

Chào mừng bạn đến với trang cá nhân của Nguyễn Thị Mai Phương
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
(Thường được cập nhật sau 1 giờ!)

Lòng yêu nước không chỉ là những lời nói hoa mỹ mà là những hành động cụ thể mỗi ngày. Em luôn cố gắng học tập thật tốt, trau dồi kiến thức để góp phần xây dựng đất nước ngày càng vững mạnh. Bên cạnh đó, em cũng tích cực tham gia các hoạt động cộng đồng, giữ gìn vệ sinh môi trường, và tuyên truyền về những giá trị văn hóa tốt đẹp của Việt Nam đến bạn bè quốc tế. Trong tương lai, em mong muốn được đóng góp nhiều hơn nữa vào sự phát triển của quê hương, có thể là qua việc nghiên cứu khoa học hoặc tham gia các dự án thiện nguyện, để xứng đáng là một công dân có ích của đất nước.

Bài thơ "Chạy giặc" của Nguyễn Đình Chiểu gửi gắm thông điệp về lòng yêu nước, căm thù giặc và sự xót xa trước cảnh nước mất nhà tan. Bài thơ tái hiện lại cảnh hoảng loạn, chạy giặc của nhân dân khi thực dân Pháp xâm lược, đồng thời thể hiện sự đau thương, mất mát của đất nước và dân tộc. 


Trong văn học, có nhiều tác phẩm thơ trào phúng : Tiến sĩ giấy, ông phỗng đá, chừa rượu,.. một trong số tất cả tác phẩm mà em tâm đắc nhất là Tiến sĩ giấy, một trong số tác phẩm trào phúng của Nguyễn Khuyến.

Bài "Vịnh tiến sĩ giấy" được sáng tác trong bối cảnh xã hội Việt Nam nửa cuối thế kỷ XIX, khi thực dân Pháp đã xâm lược và thiết lập bộ máy cai trị, đẩy mạnh chính sách khai thác thuộc địa. Bố cục của bài thơ có 3 phần: hai câu đề, hai câu thực và hai câu luận, hai câu kết.

Trong hai câu thơ trên, tác giả đang miêu tả hình ảnh "ông nghề" bằng giấy với đầy đủ các chi tiết trang phục và lễ nghi giống như một vị tiến sĩ thật:

"Cũng cờ, cũng biển, cũng cân đai,

Cũng gọi ông nghè có kém ai."

Tạo sự gợi mở và bất ngờ cho người đọc. Ban đầu, tác giả vẽ ra một hình ảnh trang trọng, uy nghi, tưởng chừng như đang nói về một vị tiến sĩ thật, khiến người đọc tò mò về đối tượng được nhắc đến. Điệp từ "cũng" nhấn mạnh sự đầy đủ, không thiếu thốn về hình thức.

Bốn câu thơ tiếp theo đi sâu vào miêu tả chất liệu và bản chất thật của "ông nghè" đó, đồng thời bộc lộ sự mỉa mai, châm biếm:

"Mảnh giấy làm nên thân giáp bảng,

Nét son điểm rõ mặt văn khôi.

Tấm thân xiêm áo sao mà nhẹ?

Cái giá khoa danh ấy mới !"

Bóc trần sự thật về chất liệu rẻ mạt ("mảnh giấy", "nét son") tạo nên vẻ ngoài hào nhoáng. Nghệ thuật đối được sử dụng tài tình ("mảnh giấy" đối "thân giáp bảng", "nét son" đối "mặt văn khôi") làm nổi bật sự đối lập gay gắt giữa danh và thực. Tiếp tục thể hiện sự châm biếm sâu sắc qua cách đánh giá "nhẹ" và "hời". "Nhẹ" chỉ sự rỗng tuếch, vô dụng, không có giá trị thực chất; "hời" chỉ sự dễ dãi, rẻ mạt của khoa danh trong thời đại đó. Giọng điệu hỏi và cảm thán thể hiện sự mỉa mai kín đáo nhưng thâm thúy của tác giả.

Hai câu thơ cuối cùng đúc kết lại ý nghĩa của bài thơ, mang đậm tính triết lý và tự trào:

"Ghế tréo lọng xanh ngồi bảnh chọe,

Nghĩ rằng đồ thật hoá đồ chơi!"

Câu thơ cuối cùng là một tiếng thở dài chua xót, một sự ngộ nhận đau đớn. Từ hình ảnh một "tiến sĩ giấy" – món đồ chơi của con trẻ, tác giả đã khéo léo liên hệ đến những "tiến sĩ" thật trong xã hội đương thời, những người mang danh hão, rỗng tuếch, vô dụng. Lời kết này không chỉ châm biếm xã hội mà còn ẩn chứa nỗi lòng tự trào của Nguyễn Khuyến, một nhà nho tài năng nhưng bất lực trước thời cuộc, cảm thấy mình cũng chẳng khác gì "đồ chơi" trong mắt triều đình phong kiến mục nát.

Tác giả đã sử dụng ngôn ngữ bình dị, ngắn gọn, gần gũi, đời thường nhưng hàm sức, giọng điệu mỉa mai, chất vấn. Từ "Tiến sĩ Giấy" không chỉ dừng lại ở nghĩa đen là một món đồ chơi. Thông qua hình tượng này, Nguyễn Khuyến đã mở rộng ý nghĩa, hướng đến việc phê phán những hạng người có danh mà không có thực, những kẻ cơ hội, dựa hơi để leo lên địa vị cao trong xã hội phong kiến suy tàn. Lời kết "Nghĩ rằng đồ thật, hoá đồ chơi!" thể hiện sự cay đắng, chua chát khi nhận ra giá trị thực sự của những danh vị hão huyền.

Bài thơ "Tiến sĩ Giấy" là một tiếng cười đầy chua chát, không chỉ vạch trần bộ mặt thối nát của nền khoa cử phong kiến và những kẻ chuộng hư danh, mà còn thể hiện nỗi đau, sự bất lực và tâm trạng tự trào sâu sắc của Nguyễn Khuyến trước thời cuộc nhiễu nhương. Bài thơ là minh chứng cho tài năng trào phúng bậc thầy và tấm lòng ưu thời mẫn thế của nhà thơ.

Bài thơ "Tiến sĩ Giấy" là một tác phẩm giàu giá trị nghệ thuật và tư tưởng. Với ngôn ngữ trào phúng bậc thầy và hình ảnh ẩn dụ sắc sảo, Nguyễn Khuyến đã khắc họa một cách sinh động thực trạng xã hội lúc bấy giờ, đồng thời gửi gắm những thông điệp sâu sắc về giá trị của trí thức và tầm quan trọng của tài năng thực sự. Qua bài "Tiến sĩ Giấy", ta càng thấy rõ tài năng kiệt xuất của Nguyễn Khuyến hơn dựa vào tài năng trào phúng sâu cay, nghẹ thuật sử dụng ngôn ngữ điều luyện và tâm hồn trong sáng và nhân cách cao thượng.

Ý kiến "tiếng cười cũng có sức mạnh của một thứ vũ khí chống lại cái chưa hay, chưa đẹp" là đúng. Tiếng cười, đặc biệt là tiếng cười trào phúng, có khả năng vạch trần, phê phán những thói hư tật xấu, những điều sai trái trong xã hội. Nó giống như một liều thuốc đắng, giúp người ta thức tỉnh và thay đổi. Tiếng cười, đặc biệt là tiếng cười trào phúng, có khả năng làm cho những điều xấu xa, những thói quen độc hại trở nên lố bịch, đáng bị lên án. Khi những điều đó bị đem ra ánh sáng, bị mọi người cười nhạo, nó sẽ mất đi sức ảnh hưởng và dần dần bị loại bỏ. Tiếng cười cũng có thể khích lệ những người đang đấu tranh chống lại cái xấu, tiếp thêm động lực cho họ. Tuy nhiên, tiếng cười cũng cần được sử dụng một cách có trách nhiệm. Tiếng cười không nên trở thành công cụ để làm tổn thương người khác, mà nên hướng tới mục đích xây dựng, giúp con người nhận ra và sửa chữa những sai lầm của mình.

Từ "thiếu phụ" trong câu "Chợt một thiếu phụ bước vào với một đứa bé độ chín, mười tháng tuổi trên tay và một chú mèo con." dùng để chỉ một người phụ nữ đã có chồng, nhưng còn trẻ. Ngữ cảnh câu văn (có đứa bé độ chín, mười tháng tuổi trên tay) càng khẳng định sắc thái này, ngụ ý đây là một phụ nữ trẻ đang trong giai đoạn nuôi con nhỏ.

Mở bài: Nêu lên vấn đề mà mình cần bàn luận.

Thân bài:  

Nêu khái niệm tệ nạn xã hội là gì?

Hậu quả của tệ nạn xã hội đối với học sinh:

+ Khiến cho ý thức học sinh đi xuống

+ Khiến cho xã hội ngày càng bị ảnh hưởng tiêu cực

+ Khiến cho tỉ lệ tội phạm tăng cao

...

Dẫn chứng:

Tệ nạn sử dụng thuốc lá điện tử ngày càng diễn ra hơn...

Nguyên nhân: 

+ Do ý thức của học sinh kém

+ Do sự quản lí lỏng lẻo của gia đình và nhà trường

+ Do sự cám dỗ và những lời dụ dỗ của các đối tượng xấu

...

Biện pháp khắc phục:

+ Tuyên truyền ý thức cho học sinh về tác hại của tệ nạn xã hội

+ Nhà trường phải phối hợp chặt chẽ với gia đình quản lí học sinh

+ Xử phạt thật nghiêm minh những kẻ dụ dỗ học sinh vào con đường tệ nạn

...

Kết bài: Khẳng định lại vấn đề cần bàn về.


Bài làm:

Hiện nay, có nhiều lứa tuổi có thói quen hay trì hoãn, truyền từ thế hệ này sang thế hệ kia, cùng với những vấn đề liên quan đến. Hôm nay, chúng ta sẽ bàn luận về thói quen trì hoãn của ở người trẻ ngày, một vấn đề quen thuộc mà ai cũng biết đến.

Tệ nạn xã hội là từ ngữ chỉ thói xấu của con người trong xã hội ngày, chẳng hạn như nghiện mạng xã hội, hút thuốc lá điện tử,....Tệ nạn xã hội đã xuất hiện từ thời xa xôi, vào năm 1874, thuốc phiện được sản xuất với tên gọi là "heroin", năm 1898-1910, thuốc phiện bắt đầu nổi tiếng, tiếp thị như một chất dùng để thay thế morphin không gây nghiện và thuốc ho cho trẻ em, việc hút thuốc phiện được nhân dân Việt Nam ngày nay giữ gìn như sản phẩm văn hóa Việt Nam. Lúc đó, tệ nạn xã hội bắt đầu phát triển, tác động đến xã hội phong kiến, giữ gìn đến tận ngày nay.

Tệ nạn xã hội gây ra những hậu quả không lường trước được như ý thức học của học sinh càng ngày càng sa sút hơn, khiến cho xã hội ngày càng bị ảnh hưởng nghiêm trọng hơn, khiến cho tỉ lệ tội phạm ngày càng nhiều hơn.

Nguyên nhân gây ra tệ nạn xã hội là do ý thức kém của học sinh, do sự quản lý lỏng lẻo của nhà trường, do sự cám dỗ của các bạn trong trường, do mình chủ quan, sĩ diện, thách thức bản thân mà gây ra những hậu quả không mong đợi của mọi người.

Chúng ta cần tuyên truyền cho mọi người biết tác hại của tệ nạn xã hội, tránh xa khỏi thuốc lá điện tử, tránh những tệ nạn trong xã hội chúng ta, nói "KHÔNG" với những thứ không có nguồn gốc và cùng nhau kết hợp lại thành một nhóm phòng tránh ma túy cũng như phòng tránh tệ nạn xã hội cùng nhau.

Vấn đề này là vấn đề mà ai cũng cần quan tâm đến, là vấn đề chúng ta cần xóa bỏ, cùng nhau phòng tránh để xã hội trở nên tốt hơn nữa.

Nghĩa tường minh:
  • "Mảnh giấy làm nên thân giáp bảng": Câu này chỉ ra rằng, danh hiệu "giáp bảng" (danh hiệu cao trong khoa cử) thực chất được tạo nên từ một mảnh giấy, một thứ vật liệu mỏng manh, tầm thường.
  • "Nét son điểm rõ mặt văn khôi": Tương tự, "mặt văn khôi" (người đỗ đầu trong kỳ thi Hương) được làm nổi bật, tô điểm bởi "nét son", một chi tiết nhỏ, không có giá trị thực chất.
  • Nghĩa hàm ẩn:
    • Châm biếm, mỉa mai: Bằng cách đối lập giữa những danh hiệu cao quý (giáp bảng, văn khôi) với những thứ tầm thường (mảnh giấy, nét son), tác giả thể hiện sự mỉa mai, châm biếm đối với những người chỉ dựa vào hình thức, không có thực tài mà vẫn được vinh danh.
    • Phê phán xã hội: Câu thơ còn thể hiện sự phê phán xã hội đương thời, nơi mà những danh hiệu, bằng cấp có thể dễ dàng có được bằng cách gian lận, mua chuộc, mà không cần dựa trên năng lực thực sự.
    • Nỗi buồn, sự thất vọng: Đằng sau sự châm biếm, mỉa mai còn là nỗi buồn, sự thất vọng của tác giả trước thực trạng xã hội, khi mà những giá trị thực sự bị xem nhẹ, những giá trị giả tạo lại được đề cao.

Chúng ta được sống trong một xã hội không còn những khói lửa, bom đạn của chiến tranh, mà thay vào đó là bầu trời xanh của hòa bình, của độc lập, tự do. Thời kì yên bình này, thì trách nhiệm của mỗi con người Việt Nam, và nhất là những con người trẻ tuổi không chỉ bảo vệ đất nước, mà còn bảo vệ và xây dựng nước nhà giàu, đẹp và mạnh. Để làm được điều đó, mỗi người, thanh niên và mỗi tuổi trẻ phải luôn rèn luyện về tri thức, học về nhân phẩm, phải luôn quan tâm, chú ý đến những sự kiện, sự việc trong nước nhà và quan trọng hơn hết, phải biết yêu thương người thân, bạn bè, quê hương, đất nước…

a: Xét tứ giác ADME có

\(\hat{A D M} = \hat{A E M} = \hat{D A E} = 9 0^{0}\)

=AEM=DAE=\(90^{o}\)

=>ADME là hình chữ nhật

b; Xét ΔABC có

M là trung điểm của BC

MD//AC

Do đó: D là trung điểm của AB

Xét ΔABC có

M là trung điểm của BC

ME//AB

Do đó: E là trung điểm của AC

ΔABC vuông tại A có AM là trung tuyến

nên AM=BC/2=BM=CM

Xét tứ giác AMBI có

D là trung điểm chung của AB và MI

Do đó: AMBI là hình bình hành

mà MA=MB

nên AMBI là hình thoi

c: Để AMBI là hình vuông thì =900

=>AM\(\bot\)BC

Xét ΔABC có

AM là đường cao, là đường trung tuyến

Do đó: ΔABC cân tại A

=>AB=AC

d;

Vì HP$\perp$AB và HQ$\perp$AC, tứ giác APHQ là một hình chữ nhật. Điều này có nghĩa là các cạnh đối diện song song và bằng nhau, và các góc đều là 90 độ.

Đường chéo PQ của hình chữ nhật APHQ là một đoạn thẳng. Điểm A là một đỉnh của hình chữ nhật này.

Trung tuyến AM của ABC có một vai trò quan trọng. Trong một tam giác vuông, trung tuyến ứng với cạnh huyền bằng một nửa cạnh huyền.

Xét phép đối xứng qua đường thẳng chứa AM. Nếu PQ vuông góc với AM, điều đó có nghĩa là PQ song song với một đường thẳng nào đó vuông góc với AM, hoặc AM là trục đối xứng của một hình nào đó liên quan đến PQ.

Chúng ta biết rằng trong hình chữ nhật APHQ, đường chéo PQ là một đoạn thẳng nối hai điểm P và Q.

Vì M là trung điểm của BC, AM là trung tuyến.

Xem xét định lí Pascal hoặc các tính chất liên quan đến đường thẳng Euler, nhưng điều này có vẻ không phù hợp trực tiếp.

Hãy tập trung vào tính chất của hình chữ nhật APHQ. Trung điểm của PQ sẽ là trung điểm của AH.

AM là trung tuyến ứng với cạnh huyền BC. AH là đường cao ứng với cạnh huyền BC.

Tứ giác APHQ là hình chữ nhật. Đường chéo PQ. Ta cần chứng minh PQ$\perp$AM.

Xét một hệ tọa độ. Cho A là gốc tọa độ (0,0). Nếu A là (0,0), và AB nằm trên trục x, AC nằm trên trục y. Khi đó B là (b,0) và C là (0,c). M, trung điểm của BC, sẽ là (b/2, c/2). Độ dốc của AM là (c/2)/(b/2) = c/b.

Đối với đường cao AH, cho H là (x_H, y_H). AH vuông góc với BC. Độ dốc của BC là (c-0)/(0-b) = -c/b. Độ dốc của AH là b/c. Phương trình của AH: y = (b/c)x.

P nằm trên AB (trục x) và HP vuông góc với AB. Vậy P là (x_H, 0). Q nằm trên AC (trục y) và HQ vuông góc với AC. Vậy Q là (0, y_H). Độ dốc của PQ là (y_H - 0)/(0 - x_H) = -y_H/x_H.

Vì H nằm trên BC, phương trình của BC là x/b + y/c = 1. Vậy x_H/b + y_H/c = 1.

Chúng ta biết y_H = (b/c)x_H. Thay điều này vào phương trình của BC: x_H/b + (b/c)x_H / c = 1 x_H/b + bx_H / c^2 = 1 x_H (1/b + b/c^2) = 1 x_H (c^2 + b^2) / (bc^2) = 1 x_H = b*c^2 / (b^2 + c^2).

Và y_H = (b/c) * (bc^2 / (b^2 + c^2)) = b^2c / (b^2 + c^2).

Bây giờ, độ dốc của PQ là -y_H/x_H = - [b^2c / (b^2 + c^2)] / [bc^2 / (b^2 + c^2)] Độ dốc của PQ = - (b^2c) / (bc^2) = -b/c.

Độ dốc của AM là c/b. Tích của độ dốc của PQ và AM là (-b/c) * (c/b) = -1. Do đó, PQ vuông góc với AM.

a: ΔABC vuông cân tại A

mà AM là trung tuyến

nên AM là phân giác của góc BAC

Xét tứ giác AEDF có

góc AED=góc AFD=góc FAE=90 độ

AD là phân giác của góc FAE

=>AEDF là hình vuông

b: AEDF là hình vuông

=>góc AEF=45 độ

=>góc AEF=góc ABC

=>EF//BC

c) ^ENF=^EDF=^EAF

<=> N thuộc EF (1)

AEDF là hình vuông

<=> AEDF thuộc AD và EF (2)

(1), (2) suy ra N thuộc AD

<=> ^AND = \(90^{O}\)