Mai Nguyễn Đức Phúc

Giới thiệu về bản thân

Chào mừng bạn đến với trang cá nhân của Mai Nguyễn Đức Phúc
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
(Thường được cập nhật sau 1 giờ!)

Bài văn nghị luận: Gìn giữ và bảo vệ những giá trị văn hóa truyền thống trong đời sống hiện đại Trong dòng chảy không ngừng của cuộc sống hiện đại, khi công nghệ và toàn cầu hóa đang làm thay đổi mạnh mẽ cách con người sống, nghĩ và cảm, thì việc gìn giữ và bảo vệ những giá trị văn hóa truyền thống trở thành một vấn đề mang tính cấp thiết. Bởi lẽ, văn hóa truyền thống không chỉ là linh hồn của dân tộc, mà còn là cội nguồn làm nên bản sắc, tinh thần và sự gắn kết cộng đồng. Văn hóa truyền thống là hệ thống các giá trị, phong tục, tín ngưỡng, ngôn ngữ, nghệ thuật, lối sống… được hình thành và lưu truyền qua nhiều thế hệ. Đó có thể là những tà áo dài thướt tha, câu ca dao mộc mạc, mái đình làng cổ kính, hay những lễ hội dân gian đặc sắc. Những giá trị ấy mang trong mình ký ức tập thể, sự tích lũy tinh thần và kinh nghiệm sống của cha ông, là sợi dây nối liền quá khứ – hiện tại – tương lai. Tuy nhiên, trước làn sóng hiện đại hóa, không ít giá trị truyền thống đang bị mai một, lãng quên. Nhiều bạn trẻ ngày nay không còn mặn mà với tiếng mẹ đẻ, thơ ca dân gian hay những trò chơi cổ truyền. Những ngôi nhà cổ, làng nghề truyền thống bị phá bỏ để nhường chỗ cho các công trình hiện đại. Không ít người chạy theo lối sống phương Tây, xem nhẹ, thậm chí quay lưng với những giá trị xưa cũ. Đó là một thực trạng đáng lo ngại, bởi khi mất đi văn hóa truyền thống, con người dễ trở nên xa rời cội nguồn, đánh mất bản sắc dân tộc mình. Việc gìn giữ và bảo vệ văn hóa truyền thống không có nghĩa là bảo thủ, khép kín hay từ chối cái mới. Ngược lại, đó là quá trình chọn lọc, kế thừa những giá trị tốt đẹp từ quá khứ, kết hợp hài hòa với tinh thần hiện đại để tạo nên bản sắc riêng trong thời đại hội nhập. Mỗi người, đặc biệt là thế hệ trẻ, cần ý thức được vai trò của mình trong việc lưu giữ tiếng Việt, trân trọng áo dài, tìm hiểu lịch sử dân tộc, tích cực tham gia các hoạt động văn hóa truyền thống, và biết nói “không” với lối sống lai căng, thực dụng​

Nhân vật “em” trong bài thơ Chân quê của Nguyễn Bính là hình tượng tiêu biểu cho vẻ đẹp mộc mạc, giản dị của người con gái thôn quê. “Em” hiện lên với vẻ đẹp truyền thống: “áo cánh nâu, quần lĩnh đen”, mái tóc “giắt trâm cài”, mang dáng dấp của một cô gái nền nã, hiền hậu, sống đúng với bản sắc quê hương. Tuy nhiên, khi yêu, “em” bắt đầu thay đổi, muốn làm đẹp theo kiểu thị thành: mặc áo “màu hoa lý”, chải tóc “rẽ ngôi lệch”, “đi giày cao gót”. Sự thay đổi ấy không chỉ là ngoại hình mà còn là biểu hiện của tâm lý thích làm mới mình để chiều lòng người yêu. Thế nhưng, trong mắt nhân vật “anh”, sự thay đổi đó lại khiến “em” đánh mất đi cái đẹp nguyên sơ, chân chất – vẻ đẹp từng khiến “anh” say mê. Qua đó, tác giả thể hiện nỗi tiếc nuối trước sự mai một của những giá trị truyền thống và bày tỏ quan điểm thẩm mỹ: cái đẹp đích thực là cái đẹp giản dị, tự nhiên, gắn liền với hồn quê. Nhân vật “em” vì thế không chỉ là cô gái trong tình yêu, mà còn là biểu tượng của một lớp người đang đứng giữa ranh giới của truyền thống và hiện đại​​

Chúng ta cần có ý thức bảo vệ, giữ gìn những giá trị văn hóa truyền thống của quê hương, dân tộc. - Chúng ta cần học được cách sống, ứng xử phù hợp với môi trường sống của mình.

- Trang phục của tỉnh: khăn nhung, quần lĩnh, áo cài khuy bấm. - Trang phục của quê: yếm lụa sồi, dây lưng đũi, áo tứ thân, khăn mỏ quạ, quần nái đen.

Nhan đề Chân quê gợi cho em cảm giác về chất quê mộc mạc, giản dị, chân chất, thật thà của những con người sống ở nông thôn.

Bài thơ Chân quê được viết theo thể thơ tự do.

Câu1:Văn bản trên giới thiệu về Quần thể di tích Cố đô Huế – di sản văn hóa thế giới đầu tiên của Việt Nam.

 

Câu 2:

Những phương thức biểu đạt được sử dụng trong văn bản:

 • Thuyết minh (giới thiệu, miêu tả các công trình, kiến trúc và cảnh quan của Cố đô Huế).

 • Biểu cảm (bày tỏ niềm tự hào và tình cảm đối với di sản văn hóa Huế).

 • Miêu tả (tả cảnh quan thiên nhiên và các công trình kiến trúc).

 

Câu 3:

Văn bản được coi là một văn bản thông tin tổng hợp vì:

 • Cung cấp đầy đủ và chi tiết các thông tin về lịch sử, kiến trúc, văn hóa của quần thể di tích Cố đô Huế.

 • Văn bản giới thiệu không chỉ về các công trình kiến trúc (Kinh thành Huế, Hoàng thành, Tử cấm thành) mà còn đề cập đến lăng tẩm, đền đài, các di tích liên quan.

 • Văn bản có sự kết hợp giữa dữ kiện lịch sử, văn hóa và cảm xúc, nhận định, thể hiện cái nhìn tổng quát và sâu sắc về di sản này.

 

Câu 4:

Phương tiện giao tiếp phi ngôn ngữ được sử dụng trong văn bản là hình ảnh Cố đô Huế.

 

Tác dụng:

 • Tăng tính trực quan, sinh động, giúp người đọc dễ hình dung và cảm nhận vẻ đẹp của Cố đô Huế.

 • Gợi cảm xúc và ấn tượng sâu sắc về giá trị lịch sử và văn hóa của di tích.

 • Làm cho văn bản hấp dẫn, thu hút hơn, tạo sự kết nối mạnh mẽ giữa nội dung chữ viết và hình ảnh thực tế.

 

Câu 5:

Quần thể di tích Cố đô Huế là một di sản văn hóa quý giá, mang đậm dấu ấn lịch sử và tinh hoa nghệ thuật của Việt Nam. Các công trình kiến trúc không chỉ thể hiện sự tài hoa của cha ông ta mà còn là niềm tự hào của dân tộc. Đọc văn bản, em cảm nhận được vẻ đẹp cổ kính, uy nghiêm của Kinh thành Huế, sự hài hòa giữa thiên nhiên và con người trong kiến trúc lăng tẩm của các vua Nguyễn.

 

Cố đô Huế không chỉ là một di tích lịch sử mà còn là biểu tượng của văn hóa và bản sắc dân tộc. Việc UNESCO công nhận nơi đây là di sản văn hóa thế giới càng khẳng định giá trị to lớn của quần thể này. Em cảm thấy tự hào và mong muốn được góp phần bảo tồn và gìn giữ di sản này cho các thế hệ mai sau.

Câu 1:

Trong thời kỳ hội nhập quốc tế, ý thức bảo vệ và giữ gìn những nét đẹp văn hóa truyền thống của giới trẻ Việt Nam là một vấn đề đáng được quan tâm. Văn hóa truyền thống không chỉ là bản sắc riêng của dân tộc mà còn là cầu nối giữa quá khứ, hiện tại và tương lai. Tuy nhiên, hiện nay, một bộ phận giới trẻ đang dần xa rời các giá trị truyền thống do ảnh hưởng của văn hóa ngoại lai và sự thiếu hiểu biết về di sản của dân tộc. Để bảo vệ nét đẹp văn hóa, mỗi cá nhân cần nâng cao nhận thức và trách nhiệm với di sản văn hóa nước nhà. Học tập và thực hành các phong tục, lễ hội truyền thống, cũng như tích cực quảng bá văn hóa Việt Nam ra thế giới, là cách thiết thực để bảo tồn. Đồng thời, cần phê phán mạnh mẽ những hành vi làm tổn hại hoặc xuyên tạc văn hóa. Giới trẻ Việt Nam chính là thế hệ kế thừa, cần phát huy tinh thần tự hào dân tộc, giữ gìn các giá trị văn hóa truyền thống, góp phần xây dựng bản sắc Việt Nam bền vững trong lòng bạn bè quốc 

Câu2:

Bài thơ gợi lên một không gian đầy ấm áp và bình dị của làng quê Việt Nam qua hình ảnh người bà chở cháu trên chiếc xe đạp, đồng thời gửi gắm những thông điệp sâu sắc về tình cảm gia đình, ký ức tuổi thơ và giá trị của những điều giản dị trong cuộc sống.

Trước hết, bài thơ khắc họa một bức tranh làng quê yên bình, nơi "khói chiều cõng một hoàng hôn" và "khói lay cỏ đồng". Hình ảnh giản dị nhưng giàu chất thơ này không chỉ vẽ nên khung cảnh quen thuộc mà còn mang ý nghĩa biểu tượng, gợi cảm giác ấm áp và sự nối tiếp của thời gian.

 

Tình cảm gia đình là sợi dây xuyên suốt bài thơ. Hình ảnh người bà tần tảo, đạp xe cõng cháu đi học về, là biểu tượng của tình yêu thương vô điều kiện và sự hy sinh thầm lặng. Hình ảnh ấy được khắc họa chân thực qua chi tiết "bờ vai bà cõng tâm hồn cháu bay" hay "bánh xe bà đạp quay tròn". Những câu thơ không chỉ miêu tả hành động mà còn làm nổi bật tình yêu thương vô hạn của bà dành cho cháu.

 

Đặc biệt, hình ảnh hai "Mặt Trời" trong bài thơ vừa mang ý nghĩa thực vừa ẩn dụ. Mặt Trời trên cao soi sáng đường về, còn "Mặt Trời cạnh bên" là hình ảnh người bà – ngọn lửa ấm áp, soi rọi tâm hồn cháu. Khi lớn lên, "hai Mặt Trời dẫn lối" trở thành biểu tượng của ký ức tuổi thơ và giá trị tinh thần, giúp người cháu định hướng giữa dòng đời.

Bài thơ nổi bật với nghệ thuật sử dụng hình ảnh sáng tạo, giàu biểu cảm. Những hình ảnh như "khói chiều", "bờ vai bà", "bánh xe quay tròn", "hai Mặt Trời" được xây dựng không chỉ bằng ngôn từ mà còn qua sự liên tưởng tinh tế, tạo chiều sâu ý nghĩa.

 

Ngôn ngữ thơ giản dị, gần gũi, mang đậm chất quê hương. Những câu thơ như lời tâm sự nhẹ nhàng, chứa đựng tình cảm chân thành, dễ chạm đến trái tim người đọc. Bên cạnh đó, tác giả còn sử dụng nhịp điệu linh hoạt, uyển chuyển, gợi nhịp đạp xe chậm rãi, thong dong của bà và dòng suy tưởng miên man của người cháu.

Hình thức lặp lại các câu thơ như "bánh xe bà đạp quay tròn", "hai Mặt Trời" góp phần nhấn mạnh những hình ảnh quan trọng và tạo nên sự kết nối giữa hiện tại và ký ức.

Bài thơ không chỉ là một bức tranh ký ức tuổi thơ đẹp đẽ mà còn là lời nhắc nhở mỗi người về giá trị của tình yêu thương gia đình. Giữa cuộc sống hiện đại bận rộn, đôi khi ta quên đi những điều giản dị nhưng đầy ý nghĩa – như tình cảm bà cháu. Hình ảnh người bà chính là biểu tượng cho những giá trị truyền thống, là cội nguồn dẫn dắt ta trên hành trình trưởng thành.

Bài thơ không chỉ chạm đến trái tim người đọc bằng nội dung sâu sắc mà còn thể hiện tài năng nghệ thuật của tác giả qua ngôn từ giản dị, giàu hình ảnh và cảm xúc. Qua đó, tác phẩm gửi gắm một thông điệp quan trọng: hãy luôn trân trọng tình cảm gia đình và giữ gìn những ký ức đẹp đẽ, vì đó là ngọn đèn soi sáng cho ta giữa dòng đời.

Hiện tượng phá vỡ quy tắc ngôn ngữ thông thường - Hiện tượng đảo trật tự từ ngữ: dùng mới mục đích nhấn mạnh, tăng sức biểu cảm cho sự diễn đạt - Hiện tượng mở rộng khả năng kết hợp của từ: từ ngữ được cung cấp thêm những khả năng kết hợp mới tạo ra những kết hợp từ vô cùng độc đáo, nhằm tăng hiệu quả diễn đạt. - Hiện tượng tách biệt: tách các thành phần câu thành những câu độc lập với dụng ý nhấn mạnh hoặc bộc lộ cảm xúc

So sánh thân êm với con bọ ngựa, con chẫu chuộc Hình ảnh con bọ ngựa và con chẫu chuộc là những con vật nhỏ bé, thân phận thấp hèn. Tác giả nhấn mạnh giá trị hấp hèn của người phụ nữ trong xã hội xưa. từ đó, lên án, phê phán một xã hội bất công. Người phụ nữ phải chịu nhiều bất hạnh trong cuộc sống.