Chu Lê Minh Yến

Giới thiệu về bản thân

Chào mừng bạn đến với trang cá nhân của Chu Lê Minh Yến
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
(Thường được cập nhật sau 1 giờ!)

a. Khái quát về cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân Nam Kì từ năm 1862 đến năm 1874:

- Sau Hiệp ước Nhâm Tuất, triều đình tập trung lực lượng đàn áp các cuộc khởi nghĩa nông dân ở Bắc Kì và Trung Kì; ngăn cản phong trào kháng chiến của nhân dân Nam Kì.

- Lợi dụng sự bạc nhược của triều đình nhà Nguyễn, năm 1867, thực dân Pháp chiếm 3 tỉnh miền Tây Nam Kì (Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên).

Phong trào kháng chiến chống Pháp của nhân dân các tỉnh Nam Kì vẫn tiếp diễn ngày càng mạnh mẽ, dưới nhiều hình thức. Tiêu biểu là:

+ Nguyễn Trung Trực lãnh đạo nghĩa quân lập căn cứ ở Hòn Chông vượt biển tập kích giặc tại đồn Kiên Giang.

+ Trương Định đã lãnh đạo nghĩa quân lập căn cứ Gò Công, Tân Phước. Sau khi Trương Định qua đời, con trai ông là Trương Quyền tiếp tục đưa quân lên Tây Ninh lập căn cứ, chiến đấu.

+ Một số nhà Nho như Nguyễn Đình Chiểu, Phan Văn Trị,... đã dùng thơ văn lên án tội ác của giặc và chế giễu bọn tay sai bán nước, ca ngợi gương chiến đấu hi sinh của nghĩa quân.

+ Ở miền Đông, phong trào kháng chiến tiếp tục bùng nổ trở lại. Nguyễn Hữu Huân bị bắt đi đày, sau khi được thả về lại tiếp tục đứng lên chống Pháp.

- Từ 1867 - 1873, thực dân Pháp từng bước thiết lập bộ máy cai trị ở Nam Kì, dùng Nam Kỳ làm bàn đạp tấn công Cam-pu-chia và tìm cơ hội đánh chiếm hết Việt Nam.

b. So sánh chủ trương cứu nước của Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh

- Điểm giống:

+ Phong trào xuất phát từ lòng yêu nước thương dân để tìm con đường giải phóng cho dân tộc.

+ Đi theo hệ tư tưởng mới: khuynh hướng dân chủ tư sản.

+ Nhận được sự ủng hộ nhiệt tình của quần chúng nhân dân.

+ Kết quả đều thất bại do sự hạn chế về tầm nhìn và tư tưởng.

+ Hoạt động ở cả trong và ngoài nước.

- Điểm khác:

+ Phan Bội Châu chủ trương bạo động: Trước hết phải đánh Pháp để giành độc lập cho dân tộc. Đó là điều kiện tiên quyết để duy tân, phát triển đất nước.

+ Phan Châu Trinh chủ trương cải cách: Trước hết phải duy tân đất nước, cải cách dân chủ. Đây là điều kiện tiên quyết để giải phóng dân tộc.


Một số chính sách khai thác thuộc địa lần thứ nhất của thực dân Pháp ở Việt Nam:

- Chính trị:

+ Hoàn thiện bộ máy thống trị ở Liên bang Đông Dương, đứng đầu là viên toàn quyền người Pháp. 

+ Việt Nam bị chia thành ba kì với ba chế độ cai trị khác nhau. 

- Kinh tế:

+ Dùng nhiều thủ đoạn chiếm đoạt ruộng đất, lập đồn điền trồng lúa và cây công nghiệp.

+ Tập trung khai thác mỏ; xây dựng một số nhà máy, xí nghiệp nhằm phục vụ nhu cầu của chính quyền thực dân như: xi măng, điện nước, xay xát gạo,...

+ Nắm giữ độc quyền thị trường Việt Nam, tăng cường bóc lột bằng các loại thuế, đặt nhiều thứ thuế mới.

+ Mở mang một số tuyến đường bộ, đường sắt, đường thuỷ và cảng biển.

- Văn hóa, giáo dục:

+ Chú trọng truyền bá văn hóa phương Tây, tìm cách hạn chế ảnh hưởng của văn hóa Trung Quốc. 

+ Đào tạo một lớp người thân Pháp làm chỗ dựa cho công cuộc thống trị và khai thác thuộc địa. 

+ Mở trường học, cơ sở y tế, văn hóa. 

a. Các bộ phận của vùng biển Việt Nam:

- Nội thuỷ: là vùng nước tiếp giáp với bờ biển, ở phía trong đường cơ sở và là bộ phận lãnh thổ của Việt Nam.

- Lãnh hải: là vùng biển có chiều rộng 12 hải lí tính từ đường cơ sở ra phía biển. Ranh giới ngoài của lãnh hải là biên giới quốc gia trên biển của Việt Nam.

- Vùng tiếp giáp lãnh hải: là vùng biển tiếp liền và nằm ngoài lãnh hải Việt Nam, có chiều rộng 12 hải lí tính từ ranh giới ngoài của lãnh hải.

- Vùng đặc quyền kinh tế: là vùng biển tiếp liền và năm ngoài lãnh hải Việt Nam, hợp với lãnh hải thành một vùng biển có chiều rộng 200 hải lí tính từ đường cơ sở.

- Thềm lục địa: là đáy biển và lòng đất dưới đáy biển, tiếp liền và nằm ngoài lãnh hải Việt Nam, trên toàn bộ phần kéo dài tự nhiên của lãnh thổ đất liền, các đảo và quần đảo của Việt Nam cho đến mép ngoài của rìa lục địa.

b. Phát triển tổng hợp kinh tế biển (đánh bắt, nuôi trồng và chế biến hải sản, khai thác khoáng sản biển - đảo, giao thông vận tải biển, du lịch biển - đảo) có ý nghĩa:

- Đối với nền kinh tế:

+ Hoạt động kinh tế biển rất đa dạng: đánh bắt, nuôi trồng và chế biến hải sản, khai thác khoáng sản biển - đảo, giao thông vận tải biển, du lịch biển - đảo. Chỉ có khai thác tổng hợp mới đem lại hiệu quả kinh tế cao và bảo vệ môi trường.

+ Thúc đẩy sự phát triển các ngành kinh tế khác như công nghiệp, thương mại,...

+ Đẩy mạnh sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cấu trúc lại cơ cấu kinh tế theo lãnh thổ.

+ Tăng nguồn thu ngoại tệ để thực hiện công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước: từ xuất khẩu thủy sản, khoáng sản, từ hoạt động du lịch, dịch vụ vận tải biển,...

+ Thu hút đầu tư nước ngoài (thăm dò, khai thác và chế biến khoáng sản biển, xây dựng các khu du lịch,...), tăng tiềm lực phát triển kinh tế.

+ Phát triển giao thông vận tải biển góp phần đẩy mạnh tiến trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới và khu vực.

- Đối với việc bảo vệ an ninh quốc phòng:

+ Khẳng định chủ quyền lãnh thổ biển - đảo của nước ta.

+ Có điều kiện bảo vệ an ninh quốc phòng biển - đảo tốt hơn.

Bài làm

Địa đạo Long Phước, một chứng tích lịch sử nằm sâu trong lòng đất Đỏ, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, đã để lại trong tôi những ấn tượng sâu sắc và khơi gợi nhiều suy ngẫm về một thời kỳ kháng chiến gian khổ mà hào hùng của dân tộc. Chuyến tham quan di tích này không chỉ giúp tôi hiểu rõ hơn về những trang sử vẻ vang mà còn cảm nhận sâu sắc tinh thần bất khuất, kiên cường của người dân Long Phước.

Đặt chân đến khu di tích, tôi không khỏi ngỡ ngàng trước vẻ bề ngoài bình dị của một vùng quê yên ả. Những hàng cây xanh mát bao phủ, những cánh đồng lúa trải dài tưởng chừng như không mang dấu vết nào của một quá khứ chiến tranh khốc liệt. Thế nhưng, khi bước chân xuống lòng địa đạo, một thế giới hoàn toàn khác mở ra trước mắt.

Mạng lưới địa đạo chằng chịt, ngoằn ngoèo như một mê cung dưới lòng đất. Những đường hầm nhỏ hẹp, chỉ vừa đủ cho một người khom lưng di chuyển, hun hút trong bóng tối. Tôi hình dung ra những chiến sĩ cách mạng đã sống và chiến đấu trong điều kiện khắc nghiệt như thế nào. Ánh sáng yếu ớt từ những ngọn đèn pin không đủ xua tan đi cảm giác ngột ngạt, ẩm thấp. Những căn hầm bí mật, nơi từng là nơi hội họp, làm việc, thậm chí là nơi ở của bộ đội và người dân, giờ đây chỉ còn là những khoảng không gian tĩnh lặng.

Nghe hướng dẫn viên kể về lịch sử hình thành và phát triển của địa đạo, tôi càng thêm khâm phục ý chí và sự sáng tạo phi thường của người dân Long Phước. Trong những năm tháng kháng chiến chống Mỹ cứu nước, địa đạo không chỉ là nơi ẩn náu an toàn mà còn là căn cứ vững chắc, là nơi tập kích quân địch bất ngờ, góp phần làm nên những chiến thắng vang dội. Những công trình như hội trường, bếp Hoàng Cầm, giếng nước, hầm cứu thương… được xây dựng hoàn toàn bằng sức người, thể hiện sự quyết tâm và tinh thần tự lực tự cường cao độ.

Một chi tiết khiến tôi đặc biệt xúc động là những chiếc hố chông được phục dựng ngay trong lòng địa đạo. Dù chỉ là mô hình, nhưng tôi vẫn cảm nhận được sự nguy hiểm và những hy sinh thầm lặng của những người đã ngã xuống để bảo vệ quê hương. Hình ảnh những người dân Long Phước, từ cụ già đến trẻ em, cùng nhau đào đất, vận chuyển vật liệu, xây dựng nên hệ thống địa đạo kiên cố đã khắc sâu vào tâm trí tôi. Họ không chỉ chiến đấu bằng vũ khí mà còn bằng cả tinh thần đoàn kết, bằng cả trái tim yêu nước nồng nàn.

Chuyến tham quan địa đạo Long Phước không chỉ là một hành trình khám phá một di tích lịch sử mà còn là một chuyến đi về nguồn cội, về những giá trị truyền thống quý báu của dân tộc. Tôi cảm nhận được sự trân trọng đối với những hy sinh cao cả của thế hệ cha anh, những người đã không tiếc máu xương để giành lại độc lập, tự do cho Tổ quốc.

Rời khỏi địa đạo, ánh nắng mặt trời rực rỡ chiếu xuống như xua tan đi cái lạnh lẽo dưới lòng đất. Nhưng những hình ảnh và cảm xúc về một thời kỳ lịch sử đầy gian khó và anh dũng vẫn còn đọng lại mãi trong tâm trí tôi. Địa đạo Long Phước không chỉ là một di tích lịch sử mà còn là một biểu tượng của tinh thần chiến đấu bất khuất, của sức mạnh đoàn kết và ý chí kiên cường của người dân Việt Nam. Chuyến đi này đã để lại trong tôi những suy nghĩ sâu sắc về giá trị của hòa bình, độc lập và trách nhiệm của thế hệ trẻ trong việc giữ gìn và phát huy những truyền thống tốt đẹp của dân tộc.

Câu 1 : Đối tượng trào phúng: Những học trò dốt.

Câu 2 : Thủ pháp trào phúng: Giễu nhại (qua các từ ngữ như: dắt díu, đòi, phường lòi tói).

Câu 3 : Sắc thái nghĩa của cụm từ “phường lòi tói” trong bài thơ:

– Nghĩa của từ “phường”: Nhóm người có một đặc điểm chung, thường tỏ ý khinh miệt.

– Nghĩa của từ “lòi tói”: Quá dốt và để lộ rõ vẻ dốt nát.

– Sự kết hợp từ ngữ này tạo nên giọng điệu chê bai, mỉa mai, khinh rẻ bọn học trò dốt. Một cách nói nhấn mạnh vào lũ học trò lộ rõ vẻ dốt nát, nhìn vào là nhận ra ngay, không thể che đậy, giấu giếm.

Câu 4 :

– Chủ đề của bài thơ: Phê phán những kẻ đã dốt lại còn hay khoe chữ.

– Một số căn cứ để xác định chủ đề:

+ Nhan đề

+ Nội dung của văn bản

+ Một số từ ngữ: dắt díu, đòi, phường lòi tói,…

+ …

(Học sinh nêu được tối thiểu 02 căn cứ)

Câu 5 :

– Tình cảm, cảm xúc của tác giả được thể hiện trong bài thơ: Khinh bỉ và có phần tức giận vì thấy sự dốt nát và ngạo mạn của những kẻ mang danh học trò.

– Bằng chứng để làm rõ ý kiến:

+ Giọng điệu của tác giả được thể hiện qua một số từ ngữ: dắt díu, đòi, phường lòi tói,…

+ Nội dung của bài thơ.

+ …

Câu 6 :

– Hình thức:

+ Mô hình đoạn văn phù hợp, đảm bảo không mắc lỗi diễn đạt, chính tả.

+ Dung lượng: Ngắn gọn, từ 5 đến 7 dòng.

– Nội dung: Học sinh cần trình bày một thông điệp được rút ra sau khi đọc bài thơ.

– Gợi ý:

+ Sống khiêm tốn, biết lắng nghe, không ngừng học hỏi.

+ Cố gắng học thực, nhận lấy kiến thức để mở mang đầu óc, nuôi dưỡng tâm hồn, không “cưỡi ngựa xem hoa” trong việc học.

+ …

Câu 1 : Đối tượng trào phúng: Những học trò dốt.

Câu 2 : Thủ pháp trào phúng: Giễu nhại (qua các từ ngữ như: dắt díu, đòi, phường lòi tói).

Câu 3 : Sắc thái nghĩa của cụm từ “phường lòi tói” trong bài thơ:

– Nghĩa của từ “phường”: Nhóm người có một đặc điểm chung, thường tỏ ý khinh miệt.

– Nghĩa của từ “lòi tói”: Quá dốt và để lộ rõ vẻ dốt nát.

– Sự kết hợp từ ngữ này tạo nên giọng điệu chê bai, mỉa mai, khinh rẻ bọn học trò dốt. Một cách nói nhấn mạnh vào lũ học trò lộ rõ vẻ dốt nát, nhìn vào là nhận ra ngay, không thể che đậy, giấu giếm.

Câu 4 :

– Chủ đề của bài thơ: Phê phán những kẻ đã dốt lại còn hay khoe chữ.

– Một số căn cứ để xác định chủ đề:

+ Nhan đề

+ Nội dung của văn bản

+ Một số từ ngữ: dắt díu, đòi, phường lòi tói,…

+ …

(Học sinh nêu được tối thiểu 02 căn cứ)

Câu 5 :

– Tình cảm, cảm xúc của tác giả được thể hiện trong bài thơ: Khinh bỉ và có phần tức giận vì thấy sự dốt nát và ngạo mạn của những kẻ mang danh học trò.

– Bằng chứng để làm rõ ý kiến:

+ Giọng điệu của tác giả được thể hiện qua một số từ ngữ: dắt díu, đòi, phường lòi tói,…

+ Nội dung của bài thơ.

+ …

Câu 6 :

– Hình thức:

+ Mô hình đoạn văn phù hợp, đảm bảo không mắc lỗi diễn đạt, chính tả.

+ Dung lượng: Ngắn gọn, từ 5 đến 7 dòng.

– Nội dung: Học sinh cần trình bày một thông điệp được rút ra sau khi đọc bài thơ.

– Gợi ý:

+ Sống khiêm tốn, biết lắng nghe, không ngừng học hỏi.

+ Cố gắng học thực, nhận lấy kiến thức để mở mang đầu óc, nuôi dưỡng tâm hồn, không “cưỡi ngựa xem hoa” trong việc học.

+ …

- Mỗi người nên có những khác vọng riêng, biết nuôi dưỡng khác vọng riêng cho mình. Khác vọng chính là hoài bão của con người, là mơ ước, là động lực để con người vượt lên hoàn cảnh, đi đến thành công.

- Cuộc sống là một món quà vô giá mà mỗi người được ban tặng. Sống biết cho đi, biết cống hiến những điều tốt đẹp cho cuộc đời. Sống dân tặng sẽ giúp cho cuộc đời có được nhiều điều tốt đẹp, con người hạnh phúc. Người sống biết dâng tặng sẽ giúp bản thân để lại những giá trị tốt đẹp, giúp bản thân hạnh phúc, vì cho đi là còn mãi. Hãy trân trọng từng giây phút của cuộc sống, sống hết mình và lan toả những điều tốt đẹp đến mọi người xung quanh.

                                                                 loading... 

loading...

 loading...