Nguyễn Thị Kiều Trang

Giới thiệu về bản thân

Chào mừng bạn đến với trang cá nhân của Nguyễn Thị Kiều Trang
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
(Thường được cập nhật sau 1 giờ!)

Câu 1: 

Bài làm: 

Tình yêu thương là một truyền thống tốt đẹp được dân tộc ta nuôi dưỡng và vun đắp từ bao đời nay. Cuộc sống phải có sự bao dung, nhân ái, sẻ chia thì con người mới hạnh phúc, xã hội mới phát triển. Cho nên, tình yêu thương có tầm quan trọng vô cùng to lớn đối với chúng ta. Lòng yêu thương được bộc lộ rõ qua những hành động, lời nói hằng ngày của chúng ta. Đó có thể là khi chúng ta nấu một bữa cơm ngon chờ đợi những người thân trở về. Hoặc đó là khi ta dắt một cụ già qua đường. Hay những ngày miền Trung gặp bão lũ, thiên tai, nhiều người dân đã ủng hộ, từ thiện giúp bà con dựng lại nhà cửa, ổn định cuộc sống. Từng lời nói, hành động yêu thương của chúng ta sẽ luôn được mọi người ghi nhớ. Sự nhân ái, bao dung sẽ khiến ta biết sẻ chia, sống vì người khác. Bên cạnh những người sống yêu thương, vẫn có một vài người sống thờ ơ, vô cảm. Họ mặc kệ khó khăn, vất vả của mọi người xung quanh, chỉ quan tâm đến lợi ích cá nhân. Ta cần phê phán những người có lối sống như vậy. Chúng ta hãy "Trao đi yêu thương để nhận lại yêu thương". Là một học sinh mang trong mình trái tim hồng của tuổi trẻ, ta cần sống đoàn kết, yêu thương để dựng xây cuộc sống ý nghĩa, tốt đẹp

Câu 2:  

Bài làm :  

Bên này – bên kia, một dòng sông chia cách hai khoảng trời, chia cách đôi bờ Kinh Bắc một bên là vùng tự do, một bên đã bị giặc chiếm đóng. Cấu trúc “sao nhớ tiếc” “sao xót xa” ẩn chứa đầy tâm trạng đớn đau, mà nhớ, tiếc nuối xót xa. Chữ “sao” như xoáy vào lòng người đọc một nỗi nhức nhối, đau đáu, khôn nguôi, xưa là thanh bình đẹp đẽ, nay là đau đớn chia lìa. Ở đây nỗi đau đã lên đến tột cùng và được cụ thể hoá như là có thể cảm giác được quê hương như là một phần máu thịt, bởi thế quê hương bị chia cắt cũng giống như con người mất đi một phần cơ thể mình. “Như rụng bàn tay – một hình ảnh so sánh thật tự nhiên, giản dị nhưng rất sâu sắc đã tiếp thêm tình yêu nỗi nhớ khôn nguôi của Hoàng Cầm đối với mảnh đất Kinh Bắc. Nỗi nhớ này là điểm xuất phát, sự bùng nổ cho cảm hứng về quê hương Kinh Bắc tuôn chảy dào dạt trong mạch thơ của ông. Đoạn thơ thứ hai trong bài thơ là một điệp khúc giàu sức gợi hình tượng: 

 

Bên kia sông Đuống 

Quê hương ta lúa nếp thơm nồng

 Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong

  Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp

Bằng những câu thơ trên, nhà thơ đã khái quát được nét vẽ đẹp nhất, sống động và điển hình nhất bức tranh làng quê Kinh Bắc. Một bức tranh đầy màu sắc, ánh sáng và hương vị. Lời giới thiệu “quê hương ta lúa nếp thơm nồng” hết sức mộc mạc, nó như một nét vẽ bình dị, quen thuộc của làng quê Việt Nam gợi dậy bao ám ảnh trong lòng người đọc về một quê hương thanh bình yên ả. Những bức tranh Đông Hồ là hình ảnh đặc trưng của quê hương Kinh Bắc thể hiện được bản sắc văn hoá tinh hoa của con người trên từng nét vẽ. Đó là sự kết tinh vẻ đẹp tài hoa trong cuộc sống tinh thần người Kinh Bắc. Những bức tranh Đông Hồ do những nghệ sĩ dân gian sáng tác bao gồm những đề tài quen thuộc phản ánh tâm tư khát vọng trong sáng lãng mạn và không kém phần dí dỏm của người liên doanh: đám cưới chuột, đàn lợn, hứng dừa, đánh ghen... chúng được vẽ trên giấy dó, giấy điệp, vẽ bằng chất liệu cỏ cây, hoa lá, đất cát quê hương. Như vậy nét tươi trong của tranh Đông Hồ không chỉ gợi ra cái tươi tắn trong trẻo mà còn chứa nét đẹp rạng ngời tinh khôi. Chữ “sáng bừng” được dùng khá độc đáo, nó không còn là tính từ mà đã được sử dụng như một động từ không chỉ để chỉ ánh sáng mà còn khẳng định sức sống kỳ diệu của dân tộc. “Màu dân tộc” trở thành một ẩn dụ độc đáo của Hoàng Cầm, qua đó thể hiện niềm kiêu hãnh của nhà thơ về bản sắc văn hoá của dân tộc mình. Bởi quê hương xiết bao yêu dấu, tự hào sống trọn trong trái tim khói lửa, nhà thơ đã diễn tả nồi đau xót căm hờn xen lẫn sự tiếc nuối xót thương với những hình ảnh đầy ấn tượng:

 

Quê hương ta từ ngày khủng khiếp

 Giặc kéo lên ngùn ngụt lửa hung tàn

 Ruộng ta khô

 Nhà ta cháy

 Chó ngộ một đàn

  Lưỡi dài lê sắc máu

  Kiệt cùng ngõ thẳm bờ hoang

  Mẹ con đàn lợn âm dương

  Chia lìa trăm ngả

  Đám cưới chuột đang tưng bừng rộn rã

  Bây giờ tan tác về đâu?

 

Câu thơ đầu giống như câu thơ bản lề làm chuyển đổi mạch cảm xúc của bài thơ. Tác giả gọi những ngày giặc xâm chiến là những ngày “khủng khiếp” cho thấy sự khốc liệt của chiến tranh. Nhiều hình ảnh ẩn dụ được sử dụng để gọi tả sự khốc liệt này, hình ảnh “lửa hung tàn” gợi ra sự tàn bạo của kẻ thù đồng thòi là tiếng nói tố cáo phê phán gay gắt chiến tranh. Nếu ở khổ thơ phía trên nhịp thơ đều đặn dàn trải ổn định thì đến khổ thơ này những câu thơ ngôn ngắt nhịp mạnh dồn dập liên tiếp chỉ tội ác chồng chất của kẻ thù cùng với niềm căm thù ngút tròi và nổi đau tột cùng của con người Từ láy “ngùn ngụt” không chi là từ gợi hình chi ngọn lửa mà chính là lòng căm thù của con người bị đốt cháy – những câu thơ của Hoàng Cầm rất giàu sắc thái biểu cảm, bao trùm lên không gian là sự hoang tàn, vắng lạnh, xơ xác, không còn cái vẻ thanh bình, cái nét trù phú tươi tắn. Tất cả chi là một cảnh tượng chia li chết chóc. Chữ kiệt cùng được dùng rất hay – không gian càng trở nên sâu thẳm, nỗi đau được biểu hiện tột cùng. Điều đặc biệt là tác giả không miêu tả cụ thể hình ảnh con người nhưng dấu ấn về cuộc sống chia li hoang tàn vẫn được biểu hiện rõ, ông đã mượn hình ảnh nhũng con vật vô tri trong bức tranh Đông Hồ để nói về nỗi đau của con người, đây là một dụng ý nghệ thuật sâu xa của nhà thơ Hoàng Cầm. Đằng sau nỗi đau là hình ảnh quê hương Kinh Bắc với những phong tục tập quán, những hội hè, đình đám, được gợi nhắc lại hết sức sống động:

Chỉ bằng vài nét phác hoạ, Hoàng Cầm đã dựng nên trước mắt người đọc từng bức chân dung cụ thể của con người Kinh Bắc, họ đều rạng ngời với vẻ đẹp truyền thống, những người thiếu nữ, có vẻ đảm đang tháo vát, nhũng cụ già phúc hậu, những em nhỏ ngây thơ tinh nghịch. Rõ ràng ở đây ta thấy niềm yêu mến sâu sắc của tác giả. Những nỗi ám ảnh trong Hoàng Cầm sâu sắc nhất có lẽ là hình ảnh người con gái Kinh Bắc.

Không có cuộc sống gắn bó máu thịt vói quê hương, không tha thiết với vẻ đẹp tinh tuý của truyền thống quê hương thì nhà thơ Hoàng Cầm có lẽ không thể có những mẫn cảm kỳ diệu như vậy. Đọc những dòng thơ nhà thơ viết về Kinh Bắc, chúng ta lại bồi hồi liên tưởng đến quê hương mình và cảm ơn nhà thơ đã nói đúng phần hồn linh nghiêm nhất của chúng ta mỗi khi trào dâng cảm xúc hoài niệm về quê hương.

 

Câu 1: Phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong bài là: Nghị luận

Câu 2: 

Nội dung chính: Con người vô tình trước những tổn thương do chính mình tạo ra cho thiên nhiên và người khác, nên đôi khi cũng cần phải đối diện với những tổn thương.

Câu 3: 

Biện pháp tu từ có trong đoạn (7) là điệp cấu trúc: “Những...quen...”.

- Tác dụng:

+ Nhấn mạnh sự bao dung của thiên nhiên với con người. 

+ Tạo nhịp điệu và tăng tính liên kết cho đoạn văn.

*Biện pháp tu từ có trong đoạn (7) là nhân hóa: mặt đất tha thứ, đại dương độ lượng, cánh rừng trầm mặc...

- Tác dụng:

+ Làm câu văn trở nên sinh động, hấp dẫn hơn.

+ Cho thấy sự bao dung của vạn vật đối với con người. 

Câu 4: 

Con người quá vô tư trước những tổn thương mà mình gây ra cho người khác, vậy nên bản thân chúng ta cũng cần phải bị thương để hiểu được làm đau người khác là làm đau chính mình. Lúc ấy, ta sẽ biết yêu thương, sẻ chia, hoà vào thế giới này bằng trái tim độ lượng. 

Câu 5:

- Bài học: Cần cẩn thận trong cách cư xử với người khác để tránh làm họ tổn thương.

- Ý nghĩa: Để làm được thế, cần chú tâm với những điều đang xảy ra trong cuộc sống, biết đặt mình vào vị trí của người khác

Câu 1:  

Bài làm: 

     Bảo vệ môi trường chính là bảo vệ Trái Đất, bảo vệ cuộc sống của chính chúng ta. Thật vậy, hưởng ứng chiến dịch bảo vệ môi trường rộng khắp trên thế giới, đất nước và địa phương, người dân nơi em sống, gia đình em và bản thân em đã có rất nhiều việc làm thiết thực để góp phần giúp môi trường xanh sạch đẹp. Về phía gia đình em, nhà em nói không hoàn toàn với xả rác bừa bãi ngoài môi trường. Ngày nào cũng vào 3 giờ chiều là nhà em vứt túi rác vào xe rác được đẩy đến. Nếu gia đình không có ai vào thời gian này thì nhà em chấp nhận lưu rác tại nhà để hôm sau vứt chứ tuyệt đối vào không vứt rác bừa bãi ở gốc cây, cột điện. Ngoài ra, khi đi chợ, gia đình em nói không với túi nilon, mẹ em luôn mang theo làn để đựng đồ khô như rau củ quả và hộp nhựa để đựng thực phẩm tươi sống như thịt, cá, hải sản,... Sau mỗi buổi đi chợ, em chỉ cần rửa hộp là hôm sau có thể dùng tiếp được, chứ không cần xài đến túi nilon gây ô nhiễm môi trường. Chưa hết, pin cũ và thiết bị điện tử nhà em không bao giờ vứt tùy tiện ra môi trường mà gom lại rồi đem ra điểm thu hồi, tránh vứt ra rồi gây độc đất và nước. Tại trường em đang học, hàng tuần, nhà trường đều tổ chức những buổi lao động dọn dẹp tại một công trình địa phương: như tượng đài, công viên, rạp hát,... Chúng em ai cũng rất vui và lao động hăng say, những hoạt động này vừa vui vừa bảo vệ môi trường, Còn về bản thân em, em luôn mang bình nước của mình thay vì dùng chai nhựa một lần, sử dụng các sản phẩm từ giấy dễ phân hủy và thân thiện môi trường, hạn chế ăn đồ ăn có bao bì nhựa, nilon,... Em tin rằng, nếu mọi người đều chung sức chung lòng thì môi trường sẽ ngày một trong lành và tốt đẹp hơn.

Câu 2: 

Bài làm : 

 Nguyễn Bỉnh Khiêm và Nguyễn Khuyến là hai trong số những thi sĩ tiêu biểu của văn học Việt Nam thế kỷ XVI và XIX. Cả hai đều có những tác phẩm nổi bật thể hiện hình tượng người ẩn sĩ, nhưng mỗi tác giả lại mang đến một cách nhìn và cảm nhận khác nhau về cuộc sống, con người và thiên nhiên.Trong bài thơ "Nhàn", Nguyễn Bỉnh Khiêm khắc họa hình ảnh người ẩn sĩ sống trong sự thanh bình, hòa hợp với thiên nhiên. Ông thể hiện sự từ bỏ danh lợi, chọn cuộc sống giản dị, an nhàn. Câu thơ mở đầu đã thể hiện rõ tâm trạng của nhân vật trữ tình: "Một mai, một cuốc, một cần câu".". Hình ảnh này gợi lên sự bình dị, gần gũi với cuộc sống nông thôn, nơi mà con người có thể tìm thấy niềm vui trong những điều giản đơn. Người ẩn sĩ trong"Nhàn" không chỉ là người sống tách biệt với thế giới bên ngoài mà còn là người có tri thức, hiểu biết về cuộc đời. Ông không chỉ tìm kiếm sự an nhàn mà còn thể hiện sự tự tại, tự do trong tâm hồn. Câu thơ "Thu ăn măng trúc, đông ăn giá" cho thấy sự hòa hợp với thiên nhiên, cuộc sống tự cung tự cấp, không bị ràng buộc bởi những lo toan, bon chen của xã hội.Ngược lại trong bài thơ " Thu vịnh " Nguyễn Khuyến cũng khắc hoạ hình ảnh người ẩn sĩ nhưng với một tâm trạng khác. Ông thể hiện sự trăn trở, suy tư về cuộc đời và những biến động của xã hội. Hình ảnh người ẩn sĩ trong"Thu vịnh" không chỉ đơn thuần là sự từ bỏ mà còn là sự phản ánh những nỗi niềm, những suy tư về cuộc sống. Câu thơ "Cảnh khuya như vẽ, người ẩn sĩ ngồi" gợi lên một không gian tĩnh lặng, nhưng đồng thời cũng chứa đựng những suy tư sâu sắc về cuộc đời.Người ẩn sĩ trong "Thu vịnh" không chỉ tìm kiếm sự an nhàn mà còn là người có trách nhiệm với xã hội, luôn trăn trở về vận mệnh đất nước.Cả hai hình tượng người ẩn sĩ đều thể hiện sự từ bỏ cuộc sống bon chen, nhưng lý do và cảm xúc của họ lại khác nhau. Nguyễn Bỉnh Khiêm chọn cuộc sống an nhàn, hòa hợp với thiên nhiên, trong khi Nguyễn Khuyến lại thể hiện sự trăn trở, suy tư về cuộc đời và xã hội.Điều này cho thấy sự đa dạng trong cách nhìn nhận về cuộc sống của con người trong bối cảnh lịch sử và xã hội khác nhau.Tóm lại, hình tượng người ẩn sĩ trong "Nhàn" và "Thu vịnh" không chỉ phản ánh tâm tư, tình cảm của các tác giả mà còn là những triết lý sống sâu sắc. Nguyễn Bỉnh Khiêm mang đến một hình ảnh người ẩn sĩ an nhàn, hòa hợp với thiên nhiên, trong khi Nguyễn Khuyến lại khắc họa một người ẩn sĩ trăn trở, suy tư về cuộc đời. Cả hai hình tượng đều góp phần làm phong phú thêm bức tranh văn học Việt Nam, thể hiện những giá trị nhân văn cao đẹp trong tâm hồn con người.

Câu 1: 

Tiếc thương sinh thái là những phản ứng tâm lí

mạnh mẽ của con người trước sự biến đối của môi trường sinh thái.

 Câu 2 : 

Bài viết trình bày thông tin theo phạm vi ảnh hưởng của đối tượng.

 

Câu 3: 

Tác giả đã sử dụng một số bằng chứng sau:

- Các nghiên cứu để giải thích sự xuất hiện của hiện tượng.

-Các ví dụ thực tiễn được ghi lại.

-Các số liệu được nghiên cứu.

 

Câu 4: Cách tiếp cận vấn đề:Tác giả không nhìn vấn đề biến đổi khí hậu như một hiện tượng tự nhiên với những ảnh hưởng về đời sống vật chất của con người mà phát hiện những ảnh hưởng "đã đi sâu vào tâm thức của mọi người, tác động sâu sắc đến đời sống tinh thần".

Câu 5: Thông điệp sâu sắc đối với bản thân:

- Biến đổi khí hậu không chỉ tác động đến môi trường tự nhiên mà còn ảnh hưởng đến đời sống văn hóa, tâm linh của con người.

- Hiện tượng tiếc thương sinh thái là vấn đề của cuộc sống hiện nay, đòi hỏi chúng ta cần có hành động để ngăn chặn những hậu quả đáng tiếc.