Nguyễn Nam Bảo

Giới thiệu về bản thân

Chào mừng bạn đến với trang cá nhân của Nguyễn Nam Bảo
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
(Thường được cập nhật sau 1 giờ!)

Đợi mẹ là một bài thơ đậm chất trữ tình của nhà thơ Vũ Quần Phương. Lời bài thơ cũng là mạch suy nghĩ, cảm xúc của người con khi chờ mẹ của mình đi làm về. Đó là nỗi nhớ, là sự mong chờ, là tình yêu thương nồng ấm dành cho mẹ. Tình cảm ấy đong đầy, không gì có thể đong đếm được, nên nhà thơ đã khéo léo chọn thể thơ tự do không có bất kì quy luật nào để khắc họa. Trong bài thơ, sự ngóng chờ tha thiết của bạn nhỏ được thể hiện qua điệp ngữ “em bé nhìn”. Hành động ấy lặp đi lặp lại nhiều lần, cho thấy bạn nhỏ rất mong được gặp mẹ. Bạn nhỏ chờ mẹ từ khi trời còn sáng, cho đến khi trăng đã lên cao, đến khi lúa đã lẫn vào trong bóng tối. Thiếu bóng mẹ, ngôi nhà lạnh lẽo, im lắng lạ kì. Sự trống vắng của ngôi nhà chính là hiện thân của sự cô đơn, lạnh lẽo trong lòng người con. Mặc kệ mọi thứ diễn ra xung quanh, bạn nhỏ đã chờ mẹ đến khi ngủ thiếp đi, và cả trong giấc mơ, bạn nhỏ vẫn tiếp tục chờ mẹ của mình. Không một câu thơ nào nói rằng bạn nhỏ yêu mẹ. Nhưng chính hình ảnh bạn nhỏ ấy tha thiết mong chờ mẹ trở về ấy đã gián tiếp nói lên tình cảm thiêng liêng, chân thành mà đứa trẻ dành cho mẹ của mình. Tình cảm ấy hóa thân thành hành động, đi cả vào trong tiềm thức của cậu. Có thể nói, bài thơ Đợi mẹ thực sự đã chạm đến trái tim người đọc một cách sâu sắc bằng những hình ảnh bình dị nhất.

 “Mây và sóng” là một trong những tác phẩm tiêu biểu của nhà thơ Ta-go. Bài thơ đã gợi ra cho người đọc cảm nhận sâu sắc về tình mẫu tử thiêng liêng. Em bé trong bài thơ được mời gọi đến thế giới kỳ diệu ở “trên mây” và “trong sóng”. Với sự hiếu kỳ của một đứa trẻ, em đã cất tiếng hỏi: “Nhưng làm thế nào mình lên đó được?”, “Nhưng làm thế nào mình ra ngoài đó được?”. Nhưng khi em bé nhớ đến mẹ vẫn luôn chờ đợi mình ở nhà, em đã từ chối đầy kiên quyết: “Làm sao có thể rời mẹ mà đến được?”, “Làm sao có thể rời mẹ mà đi được?”. Chẳng có niềm hạnh phúc nào bằng được ở bên cạnh mẹ mặc dù thế giới ngoài kia nhiều hấp dẫn. Để rồi, em bé đã sáng tạo ra những trò chơi còn thú vị hơn của những người “trên mây” và “trong sóng”. Trong trò chơi đó, em sẽ là mây, là sóng tinh nghịch nô đùa; còn mẹ sẽ là vầng trăng, là bờ biển dịu hiền, ôm ấp và che chở con. Những câu thơ giàu tính tự sự và miêu tả nhưng lại góp phần bộc lộ cảm xúc của nhân vật trong bài thơ. Ta-go đã sử dụng trong bài thơ những lời thoại, chi tiết được kể tuần tự, vừa lặp lại vừa biến hóa kết hợp với hình ảnh giàu tính biểu tượng. Bài thơ chính là một câu chuyện cảm động về tình mẫu tử thiêng liêng, bất diệt.

Với lời thơ mộc mạc, gần gũi, "Mẹ và quả" của Nguyễn Khoa Điềm đã để lại cho em những rung cảm và niềm xúc động sâu sắc. Bài thơ là lời giãi bày chân thành, dạt dào cảm xúc của người con dành cho mẹ. Hình ảnh mẹ hiện lên thật chân thực, rõ nét. Trong trái tim con, mẹ là người phụ nữ tảo tần, giàu đức hi sinh. Mẹ luôn vun vén bồi đắp cho những cây quả lớn lên. Quanh năm suốt tháng, mồ hôi mẹ cứ vậy mà nhỏ xuống để những mùa quả "lặn" rồi lại "mọc". Chính điều đó đã khiến cho người con thêm trân trọng, nâng niu, biết ơn sự hi sinh thầm lặng của mẹ. Ở hai câu thơ "Lũ chúng tôi từ tay mẹ lớn lên/ Còn những bí và bầu thì lớn xuống", tác giả đã sử dụng biện pháp đối lập, tương phản. Câu thơ vừa mang nghĩa tả thực, vừa mang ý nghĩa biểu trưng sâu sắc. Cả con và bầu, bí đều lớn lên từ đôi bàn tay cần mẫn và tình yêu thương của mẹ. Người con muốn bày tỏ tấm lòng biết ơn sâu sắc dành cho mẹ, người đã vì con mà vất vả, nhọc nhằn. Đến khổ thơ cuối cùng, nhân vật trữ tình "hoảng sợ ngày bàn tay mẹ mỏi". Tác giả lấy hình ảnh "bàn tay mẹ mỏi" để chỉ người mẹ đã già yếu, đến cái tuổi "gần đất xa trời". Hai dòng thơ cuối: "Tôi hoảng sợ ngày bàn tay mẹ mỏi/ Mình vẫn còn một thứ quả non xanh" đã diễn tả được tâm trạng lo lắng, trăn trở, pha chút ân hận của nhân vật trữ tình. Chủ thể trữ tình lo rằng mẹ già rồi mà mình vẫn còn vụng dại, chưa kịp khôn lớn, trưởng thành. Để thể hiện một cách sâu sắc nội dung, tác giả đã sử dụng hàng loạt các biện pháp tu từ độc đáo như ẩn dụ, so sánh, hoán dụ, nói giảm nói tránh và hình ảnh gần gũi, giản dị. Qua tác phẩm, em càng thêm trân trọng những phút giây được ở bên mẹ của mình.

Trong kho tàng truyền thuyết của dân tộc ta, Thánh Gióng là hình tượng tiêu biểu nhất của một người anh hùng cứu nước.

Từ khi sinh ra, xung quanh Thánh Gióng đã là những câu chuyện kì ảo, huyền bí. Khi mẹ anh mang thai nhờ ướm thử chân vào một vết chân khổng lồ ở ngoài đồng. Rồi đến chuyện cả ba năm trời anh chỉ biết nằm yên một chỗ, không nói cũng chẳng cười. Thế mà vừa nghe tiếng sử giả đi tìm người tài cứu nước, thì lại nói chuyện lưu loát được ngay. Đặc biệt, sau khi phân phó sứ giả về tâu với nhà vua để chuẩn bị trang bị cho mình đánh giặc, Gióng mới bắt đầu trưởng thành với tốc độ chóng mặt. Cơm vừa ăn xong đã đói, áo vừa mặc chẳng mấy chốc liền sứt chỉ. Thế là, nhân dân cả làng đã góp sức, góp gạo cùng nuôi Gióng lớn. Chi tiết đó, đã lần đầu tiên trong lịch sử văn học dân gian Việt Nam, tạo ra một người anh hùng của nhân dân, vì nhân dân. Gióng ăn cơm của cả làng nấu, mặc áo của cả làng may, lớn lên vì muốn bảo vệ làng khỏi giặc Ân hung dữ. Những chi tiết đó, đều giúp người anh hùng thêm gắn bó với quê hương và nhân dân. Sau khi sứ giả mang ngựa sắt, giáp sắt và roi sắt đến, Gióng liền vươn vai thành một tráng sĩ cao lớn. Chàng mặc giáp, cưỡi ngựa lao thẳng ra trận, dũng mãnh như một mũi tên khổng lồ. Gióng đi đến đâu, giặc chết như ngả rạ đến đó, không thể nào chống lại được. Cứ thế, Gióng đánh đuổi giặc cho đến khi đuổi chúng ra khỏi biên giới nước ta. Sức mạnh tuyệt đối ấy của chàng cũng chính là ước mơ, khao khát của nhân dân về một người anh hùng dân tộc.

Chàng Thánh Gióng trong tiểu thuyết cùng tên là bức tượng đài đầu tiên và vững chãi nhất xuyên suốt lịch sử văn học dân gian Việt Nam. Chàng là người anh hùng lí tưởng về cả nguồn gốc và sức mạnh tuyệt đối, không gì cản nổi. Từ đó, thấy được tình yêu mến, kính ngưỡng mà nhân dân dành cho anh.

Có rất nhiều người ban đầu rất hăm hở bắt tay ngay vào việc thực hiện một mục tiêu hay kế hoạch nào đó nhưng do những tác động khách quan nhiều khi khiến họ chao đảo, lung lay, thay đổi lập trường, mất đi sự bền gan lập trí dẫn đến thất bại. Nói về vấn đề này, ông cha ta đã có câu chuyện ngụ ngôn “Đẽo cày giữa đường” để khuyên dạy chúng ta về sự kiên định, tin tưởng vào chính bản thân mình.
Câu chuyện kể về một anh nông dân, ban đầu ông ta hoàn toàn có thể hoàn thiện một cái cày theo ý muốn của mình nhưng vì không có chủ kiến, mỗi người đi qua góp ý và ai nói gì anh ta cũng làm theo, nghe theo sự phán xét của nhiều người nên cuối cùng cái cày ban đầu chỉ còn là một mẩu gỗ bé xíu không bán được, mất thời gian phí công sức lại bị thiên hạ chê cười. Thông qua câu chuyện ông cha ta muốn khuyên nhủ mọi người hãy giữ vững quan điểm lập trường kiên định bền gan bền trí để đạt được mục tiêu của chính mình, không giao động và lắng nghe ý kiến người khác một cách chọn lọc, có cân nhắc, có suy nghĩ đúng đắn.
Trong cuộc sống không phải lúc nào ta cũng nhận được sự giúp đỡ phù hợp. Vì vậy, mỗi người phải có chính kiến của mình. Giữ vững ý kiến quan điểm lập trường khác hoàn toàn với thái độ bảo thủ ngoan cố, không chịu tiếp thu cái đúng cho phù hợp với quy luật của xã hội dẫn đến sự thất bại. Mặc dù ta vẫn tiếp thu ý kiến của người khác nhưng phải biết chọn lọc để những ý kiến đó bổ trợ cho ý tưởng của mình chứ đừng để nó chi phối hay lấn át những lý tưởng của bản thân.
Một khi bạn đã có được chính kiến của mình thì vốn tri thức và bản lĩnh sẽ giúp bạn đạt được mục tiêu một cách dễ dàng mà không lo không biết rằng mình có đang trong tình trạng “đẽo cày giữa đường không?”. Tri thức là hiểu biết, trình độ và tầm nhìn chiến lược của vấn đề để khi quyết định rồi thì không phải thắng lợi bằng niềm tin mà phải có cơ sở chứng minh sẽ đạt thành quả tích cực. Bản lĩnh là biết nhận định đúng sai, tính logic của từng góp ý cảm nhận để chắt lọc thật chính xác những điều hay lẽ phải, không bị xu hướng hay ảnh hưởng khác tác động đến quyết định của mình. Nhưng một khi đã quyết định làm thì dám chịu trách nhiệm bản thân.
Câu chuyện ngụ ngôn “Đẽo cày giữa đường” đã đem đến bài học sâu sắc cho mỗi người chúng ta. Rằng mỗi người phải học cách chủ động và có chính kiến của minh trong bất cứ công việc nào đừng để những lời nói bên ngoài ảnh hưởng tới công việc mà bạn là người hiểu rõ nhất. Hãy luôn tin vào chính bản thân mình thành công sẽ chờ bạn ở cuối con đường.