K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

Hồi còn nhỏ, nhỏ xíu, tôi chưa có bạn gái. Suốt ngày chỉ chơi với…mẹ tôi và bà nội tôi. Mẹ tôi rất thương tôi nhưng vì mẹ sợ ba nên ít khi mẹ che chở được tôi trước những trận đòn của ba tôi. Bà tôi thì lại khác. Bà sinh ra ba nên ba phải sợ bà. Điều đó thật may mắn đối với tôi.Hồi nhỏ tôi rất nghịch, ăn đòn khá thường xuyên. Điều đó buộc đầu óc non nớt của tôi...
Đọc tiếp

Hồi còn nhỏ, nhỏ xíu, tôi chưa có bạn gái. Suốt ngày chỉ chơi với…mẹ tôi và bà nội tôi. Mẹ tôi rất thương tôi nhưng vì mẹ sợ ba nên ít khi mẹ che chở được tôi trước những trận đòn của ba tôi. Bà tôi thì lại khác. Bà sinh ra ba nên ba phải sợ bà. Điều đó thật may mắn đối với tôi.

Hồi nhỏ tôi rất nghịch, ăn đòn khá thường xuyên. Điều đó buộc đầu óc non nớt của tôi phải tìm cách đối phó với những trận đòn trừng phạt của ba tôi. Mỗi lần phạm lỗi, hễ thấy ba tôi dợm rút cây roi mây ra khỏi vách là tôi vội vàng chạy sang nhà bà tôi. Bà tôi thường nằm trên cái sập gỗ lim đen bóng, bên dưới là những ngăn kéo đựng thuốc bắc của ông tôi. Bà nằm đó, miệng bỏm bẻm nhai trầu, tay phe phẩy chiếc quạt mo cau với một dáng điệu thong thả.

- Bà ơi, bà!- tôi chạy đến bên chiếc sập, hỏn hển kêu.

Bà tôi chỏi tay nhỏm dậy:

- Gì đó cháu?

- Ba đánh! – Tôi nói, miệng méo xệch.

- Cháu đừng lo! Lên đây nằm với bà!

Bà tôi dịu dàng trấn an tôi và đưa tay kéo tôi lên sập, đặt tôi nằm khuất sau lưng bà, phía sát tường. xong, bà tôi xoay người lại, nằm quay mặt ra ngoài.

Lát sau, ba tôi bước qua, tay vung vẩy con roi dài, miệng hỏi:

- Mẹ có thấy thằng Ngạn chạy qua đây không?

- Không thấy.

Bà tôi thản nhiên đáp và tiếp tục nhai trầu. Tôi nằm sau lưng bà, tim thót lại vì lo âu. Tôi chỉ cảm thấy nhẹ nhõm khi nghe tiếng bước chan ba tôi xa dần. {….}.

Bà tôi không bao giờ từ chối yêu cầu của tôi. Bà vừa gãi lưng cho tôi vừa thủ thỉ kể chuyện cho tôi nghe. Những câu chuyện đời xưa của bà tôi nghe đã thuộc lòng…. Tuy vậy, mỗi khi bà kể chuyện, tôi luôn luôn nằm nghe với cảm giác hứng thú hệt như lần đầu tiên, có lẽ do giọng kể dịu dàng và âu yếm của bà, bao giờ nó cũng toát ra một tình cảm trìu mến đặc biệt dành cho tôi khiến trái tim tôi run lên trong một nỗi xúc động hân hoan khó tả. Và tôi ngủ thiếp đi lúc nào không hay, với trái tim không ngừng thổn thức.

(Nguyễn Nhật Ánh. Mắt biếc, Nxb Trẻ, 2021)

Viết giúp mình dàn ý phân tích truyện ngắn ở trên với ạ, mình cảm ơn

0
28 tháng 4

Hiệp ước Giáp Tuất là một văn kiện bất bình đẳng, thể hiện sự yếu kém và đường lối sai lầm của triều đình nhà Nguyễn trong bối cảnh đất nước bị xâm lược. Nó không chỉ làm mất một phần lãnh thổ quan trọng mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho thực dân Pháp từng bước hoàn thành quá trình xâm lược Việt Nam. Đây là một bài học sâu sắc về tầm quan trọng của việc kiên quyết bảo vệ chủ quyền và độc lập dân tộc.

27 tháng 4

*Trả lời:
- Để đánh giá giá trị nội dung và nghệ thuật của "Xứ Sở Miên Man" của Jun Phạm, chúng ta có thể xem xét các yếu tố sau:

1. Giá trị nội dung:

  • - Khám phá văn hóa Khmer: "Xứ Sở Miên Man" là một hành trình khám phá văn hóa Khmer đầy màu sắc và thú vị. Jun Phạm đã đưa người đọc đến với những địa danh nổi tiếng, những phong tục tập quán độc đáo, và những món ăn đặc sản của Campuchia.
  • - Thể hiện tình yêu quê hương: Dù kể về một đất nước khác, nhưng "Xứ Sở Miên Man" vẫn thể hiện tình yêu quê hương sâu sắc của Jun Phạm. Anh so sánh, liên tưởng những nét tương đồng và khác biệt giữa văn hóa Khmer và văn hóa Việt Nam, từ đó khẳng định tình yêu và niềm tự hào đối với bản sắc văn hóa dân tộc.
  • - Truyền cảm hứng du lịch: Cuốn sách khơi gợi niềm đam mê du lịch, khám phá những vùng đất mới, những nền văn hóa khác nhau. Jun Phạm khuyến khích mọi người hãy mở lòng, trải nghiệm và học hỏi những điều mới mẻ từ thế giới xung quanh.
  • - Thông điệp về sự hòa nhập và tôn trọng: "Xứ Sở Miên Man" gửi gắm thông điệp về sự hòa nhập và tôn trọng giữa các nền văn hóa. Jun Phạm thể hiện sự tôn trọng đối với văn hóa Khmer, đồng thời khuyến khích mọi người hãy cởi mở, chấp nhận và học hỏi từ những nền văn hóa khác.

2. Giá trị nghệ thuật:

  • - Ngôn ngữ giản dị, gần gũi: Jun Phạm sử dụng ngôn ngữ giản dị, gần gũi, dễ hiểu, phù hợp với nhiều đối tượng độc giả. Anh viết như đang trò chuyện, chia sẻ những trải nghiệm cá nhân một cách chân thật và dí dỏm.
  • - Giọng văn hài hước, dí dỏm: "Xứ Sở Miên Man" tràn ngập những chi tiết hài hước, dí dỏm, giúp người đọc cảm thấy thư giãn và thoải mái. Jun Phạm không ngại tự trào, kể những câu chuyện "dở khóc dở cười" trong hành trình khám phá Campuchia.
  • - Hình ảnh minh họa sinh động: Cuốn sách được minh họa bằng những hình ảnh đẹp, sắc nét, giúp người đọc hình dung rõ hơn về cảnh quan, con người và văn hóa Khmer.
  • - Bố cục mạch lạc, rõ ràng: "Xứ Sở Miên Man" được chia thành các chương, mục rõ ràng, giúp người đọc dễ dàng theo dõi hành trình khám phá Campuchia của Jun Phạm.

*Đánh giá chung:

- "Xứ Sở Miên Man" là một cuốn sách du ký hấp dẫn, thú vị và giàu cảm xúc. Jun Phạm đã thành công trong việc giới thiệu văn hóa Khmer đến với độc giả Việt Nam một cách sinh động và chân thật. Cuốn sách không chỉ mang đến những kiến thức bổ ích về văn hóa, lịch sử, mà còn truyền cảm hứng du lịch và những thông điệp ý nghĩa về tình yêu quê hương, sự hòa nhập và tôn trọng giữa các nền văn hóa.

27 tháng 4

I. Mở bài

  • Giới thiệu về tác giả Vũ Thị Huyền Trang và bài thơ "Đôi dép của thầy":
    • Là một bài thơ giản dị, xúc động, gợi hình ảnh gần gũi về người thầy.
  • Khẳng định hình ảnh đôi dép là biểu tượng thấm đượm tình thầy trò, đồng thời thể hiện sự tri ân sâu sắc của người học trò đối với người thầy.

II. Thân bài

1. Ý nghĩa biểu tượng của "đôi dép"

  • Đôi dép – vật dụng quen thuộc, gắn liền với cuộc sống giản dị, đời thường của người thầy.
  • Biểu tượng cho chặng đường dài thầy đã bước qua:
    • Những nẻo đường bụi bặm, gập ghềnh nhưng thầy vẫn bền bỉ, kiên trì.
  • Đôi dép còn tượng trưng cho sự lặng lẽ, tận tụy của người đưa đò thầm lặng.

2. Hình ảnh người thầy qua đôi dép

  • Sự hy sinh âm thầm:
    • Đôi dép cũ mòn đi theo năm tháng như tấm lòng thầy mòn mỏi vì học trò.
  • Tấm gương đạo đức và tâm huyết:
    • Qua hình ảnh đôi dép, hiện lên người thầy với dáng vẻ giản dị, không khoa trương, hết lòng vì sự nghiệp trồng người.
  • Gắn bó, dõi theo từng bước trưởng thành của học trò:
    • Đôi dép cũng như ánh mắt, bàn tay thầy luôn nâng đỡ học trò trong suốt hành trình.

3. Tình cảm, lòng biết ơn của học trò dành cho thầy

  • Sự xúc động, trân trọng trước những vất vả thầm lặng của thầy.
  • Niềm tri ân sâu sắc vì những bài học, những bước đường thầy đã đồng hành.
  • Mong ước được khắc ghi công ơn, tiếp nối lý tưởng thầy trao truyền.

4. Nghệ thuật trong bài thơ

  • Hình ảnh giản dị mà giàu sức gợi: đôi dép – biểu tượng đắt giá.
  • Giọng thơ nhẹ nhàng, cảm xúc chân thành.
  • Thủ pháp ẩn dụ, nhân hóa: làm cho đôi dép như mang linh hồn, như hóa thân của thầy.

III. Kết bài

  • Khẳng định vẻ đẹp giản dị nhưng sâu sắc của hình ảnh "đôi dép của thầy".
  • Liên hệ: gợi nhắc mỗi người về lòng biết ơn đối với những người thầy cô đã dìu dắt mình trên hành trình trưởng thành.
Đọc bài thơ sau và thực hiện yêu cầu:Chiều xuân ở thôn Trừng MạiPhân phất mưa phùn, xâm xẩm mâyMặc manh áo ngắn giục trâu càyNàng dâu sớm đã gieo dưa đóBà lão chiều còn xới đậu đâyMía cạnh giậu tre đang nảy ngọnKhoai trong đám cỏ đã xanh câyĐiền viên nghĩ thật nguồn vui thúDẫu chẳng hành môn đói cũng khuây.Câu 1: Trong sáu câu thơ đầu, thiên nhiên mùa xuân được miêu tả qua các...
Đọc tiếp

Đọc bài thơ sau và thực hiện yêu cầu:
Chiều xuân ở thôn Trừng Mại

Phân phất mưa phùn, xâm xẩm mây

Mặc manh áo ngắn giục trâu cày

Nàng dâu sớm đã gieo dưa đó

Bà lão chiều còn xới đậu đây

Mía cạnh giậu tre đang nảy ngọn

Khoai trong đám cỏ đã xanh cây

Điền viên nghĩ thật nguồn vui thú

Dẫu chẳng hành môn đói cũng khuây.
Câu 1: Trong sáu câu thơ đầu, thiên nhiên mùa xuân được miêu tả qua các hình ảnh, từ ngữ nào? Em có cảm nhận gì về bức tranh thiên nhiên đó?
Câu 2: trong hai câu thwo sau có sử dụng biện pháp tu từ nào? Việc sử dụng biện pháp tu từ đó mang lại hiệu quả nghẹ thuật gì?
"Phân phất mừa phùn, xâm xẩm mây

Mặc manh áo ngắn giục trâu cày"

Câu 3: Nơi thôn que ấy, cuộc sống tuy vất vả nhưng con người được gắn bó, chan hòa với thiên nhiên. Từ hiểu biết về văn bản trên, hãy nêu suy nghĩ của em về ý nghĩa của việc sống chan hòa với tự nhiên. (Trả lời 5-7 câu văn liên mạch)

0
Phải rồi, tôi với Kiên sẽ cứ sống hòa thuận mãi nếu như không có một buổi chiều nọ, không có trò đùa độc ác của cậu ta. Tôi là con gái của một người quét rác, nhưng lại thi đỗ vào lớp chuyên mấy năm nay- một lớp chuyên với phần lớn bạn bè có hoàn cảnh sống đàng hoàng hơn tôi. Đêm đêm dậy mở cửa cho mẹ, cảm nhận rõ cái mùi bụi bặm trên quần áo mẹ, tôi thương mẹ nao...
Đọc tiếp

Phải rồi, tôi với Kiên sẽ cứ sống hòa thuận mãi nếu như không có một buổi chiều nọ, không có trò đùa độc ác của cậu ta. Tôi là con gái của một người quét rác, nhưng lại thi đỗ vào lớp chuyên mấy năm nay- một lớp chuyên với phần lớn bạn bè có hoàn cảnh sống đàng hoàng hơn tôi. Đêm đêm dậy mở cửa cho mẹ, cảm nhận rõ cái mùi bụi bặm trên quần áo mẹ, tôi thương mẹ nao lòng và lại nhớ đến các bà mẹ phấn son thơm nức, thỉnh thoảng đến họp phụ huynh ở lớp tôi. Mẹ tôi tuổi Dậu, cầm tinh con gà. Phải chăng vì thế mà đời mẹ luôn vất vả sớm khuya khi làm vợ bố tôi, một người lính biền biệt xa nhà? Thương mẹ, tôi đã nhiều lần đi làm thay mẹ, những khi mẹ cảm cúm không kịp báo nghỉ. May là tôi vào loại có sức vóc. Chạng vạng chiều tối hôm ấy, tôi cùng hai cô trong tổ của mẹ quét đường bà Triệu. Bụi mù mịt, lá vàng chạy tơi tả theo từng nhát chổi. Đúng lúc đó tôi nhìn thấy Kiên. Tay ôm một bọc sách dày, có vẻ như cậu ta vừa từ hiệu sách về. Hẳn là Kiên cũng nhận ra tôi, đằng sau tấm khăn hoa cũ bịt gần kín mặt. Trong một thoáng, tôi còn bắt gặp ánh mắt Kiên trước khi cậu ta quay đi, vờ như không trông thấy tôi. Chuyện chỉ có thế thôi và tôi sẽ thầm cảm ơn cử chỉ tinh tế của Kiên biết vao nếu như hôm sau trên bảng lớp không xuất hiện tờ biếm họa. Một và lão mũi khoằm cưỡi trên cây chổi dài, tóc tung bay trong gió. Hơn ai hết tôi biết ngay đó là bức tranh "phù thủy Baba Yaga". Tôi chỉ còn biết lặng lẽ khóc trong tiếng cười tán thưởng của đám con trai nghịch ngợm và cái xiết tay an ủi của Hoàng Anh.. Sau trò đùa độc ác đó, cũng lặng lẽ, tôi tránh xa Kiên với lòng khinh bỉ vô hạn. Nhìn những cái áo khoác ngoại đắt tiền với những chiếc quần bò đang thịnh mốt Kiên mặc cũng đủ biết cậu ta không cùng đẳng cấp với một con bé ở ngoài đê, hai mùa đông vẫn chỉ mặc độc mặc một cái áp rét đã lạc mốt như tôi. Nhưng Kiên lấy quyền gì để đem nghề nghiệp của mẹ tôi ra mà giễu cợt cơ chứ? Con gái thường hay thù dai. Từ ngày ấy đến nay, tôi gần như không mở miệng nói câu nào với Kiên, mặc dù cậu ta đã có lời xin lỗi ngay hôm xảy ra sự việc và nhiều lần tìm cách làm lành. Khổ một nỗi, cứ nhìn cái mặt điển trai không hề biết đến buồn chán của Kiên là tôi lại nhớ ngay đến cái buổi chiều chạng vạng quèn quẹt cái chổi dạo nọ. Có thể nói, Kiên là một kẻ thù lặng lẽ luôn khuấy đảo mặc cảm nghèo khó trong tôi. Vậy mà bây giờ cậu ta còn bày đặt ra cái trò "gửi thư" mời tôi đến nhà chơi. Lại một trò đùa ác ý nữa chăng? Tan học, tôi vội vã lao ra khỏi lớp trước tiên, lấy xe đạp trước tiên và lên xe đạp thẳng không một lần ngoái lại. Kì thực, tôi ước sao có thể nhìn tận mắt vẻ mặt Kiên lú đó - lúc tôi bỏ đi trước mũi cậu ta. "Mình thường rất nể những bạn gái học giỏi.." Một tuần sau, tôi lại nhận được thư của Kiên. Thư kẹp trong cuốn bài tập Vật lí, đưa tận tay cho tôi trong buổi Kiên cùng Hoàng Anh và Quang, một cậu bạn trong hội nghịch ngợm của Kiên, đến nhà tôi chơi vào một chiều chủ nhật. Có cả Hoàng Anh và Quang, không khí giữa tôi và Kiên có phần đỡ sượng sùng. Hơn nữa, mẹ vẫn dặn tôi con gái phải biết nhiệt tình, ân cần khi tiếp khách. Chỉ là hơi lạ vì hôm đó, "Cái Dằm" lớp tôi không một lần trổ tài đùa tếu, ít nói hẳn khiến một đứa vô tâm như Hoàng Anh cũng phải ngạc nhiên. Thậm chí, "Cái Dằm" lại còn biết nói một câu rất chi là lãng mạn, khi thấy mấy giỏ phong lan bố tôi vừa đem về: - Hôm nào mình sẽ cắt cho Miên một cành cẩm cù. Hoa nó thơm, dễ chịu lắm. Miên thích trồng hoa cẩm cù không? "Mình thường rất nể những bạn gái học giỏi. Vì thế, ngay từ năm lớp mười một mình đã rất nể Miên. Không ngờ cái bệnh tếu của mình đã nhiều phen làm Miên phải khó chịu (ở nhà, bố mẹ mình vẫn gọi mình là chú Tễu đấy). Biết làm sao được khi sinh ra mình đã là một thằng bé hay cười? Chỉ mong Miên tin một điều: Buổi chiều gặp Miên ở đường Bà Triệu thật khó quên đối với mình, bởi vì từ lúc đó mình chợt nhận ra: Miên giỏi giang hơn mình biết bao nhiêu. Một lần nữa, xin Miên thứ lỗi cho mình về bức tranh nhé. Miên có tin không," Cái Dằm mỗi khi gặp Miên thì lại muốn tự châm cho mình một cái rõ đau đấy. Kiên". Chắc Kiên chưa biết rằng hôm qua cậu Quang đã thú nhận với tôi chính cậu ta mới là tác giả của bức tranh nọ. Tôi đã từng được xem hoa cẩm cù nở. Những bông hoa màu hồng tím nom như các ngôi sao tí hon ấy thường chỉ tỏa hương về đêm - một mùi hương kín đáo rất khó nhận ra.
C1:chủ đề của vb này là gì ?
C2-Chắc Kiên chưa biết rằng hôm qua cậu Quang đã thú nhận với tôi chính cậu ta mới là tác giả của bức tranh nọ. Tôi đã từng được xem hoa cẩm cù nở. Những bông hoa màu hồng tím nom như các ngôi sao tí hon ấy thường chỉ tỏa hương về đêm - một mùi hương kín đáo rất khó nhận ra-cảm xúc của nv tôi trong câu trên là gì

c3-tan học, tôi vội vã lao ra khỏi lớp trước tiên, lấy xe đạp trước tiên và lên xe đạp thẳng không một lần ngoái lại. Kì thực, tôi ước sao có thể nhìn tận mắt vẻ mặt Kiên lúc đó , lúc tôi bỏ đi trước mũi cậu ta-tpbt trong câu trên là j và chỉ ra


0
phân tích truyện "Hai người cha" của Lê Văn Thảo.HAI NGƯỜI CHA(Lược phần đầu: Tám Khoa là một người lính, vợ con ông đã chết trong chiến tranh. Sau ngày giải phóng, có đứa con trai hỏi đúng tên họ, đến tìm và nhận là con ông, nó cười mãi trong niềm vui khôn tả. Đứa nhỏ kể về hoàn cảnh cực khổ của mình) […] “Thôi được rồi, con ở lại đây đi”, Tám Khoa nói, làm dấu chấm cuối...
Đọc tiếp

phân tích truyện "Hai người cha" của Lê Văn Thảo.


HAI NGƯỜI CHA


(Lược phần đầu: Tám Khoa là một người lính, vợ con ông đã chết trong chiến tranh. Sau ngày giải phóng, có đứa con trai hỏi đúng tên họ, đến tìm và nhận là con ông, nó cười mãi trong niềm vui khôn tả. Đứa nhỏ kể về hoàn cảnh cực khổ của mình) […] “Thôi được rồi, con ở lại đây đi”, Tám Khoa nói, làm dấu chấm cuối cùng cho một quyết định mơ hồ, vô lý nhưng không thể nào cưỡng lại được.Bởi đứa nhỏ đâu phải con ông. Ông đúng tên họ đó, ở đơn vị đó, nhưng hồi đơn vị hành quân về Cà Mau ông đâu có đi. Cả đời ông cũng chưa từng về vùng đó. Ông có vợ con nhưng chết cả rồi, tự tay ông chôn cất, trong chiến tranh ở rừng miền Đông. Nhưng đó là chuyện đã qua. Giờ đứa nhỏ đang ngồi trước mặt ông, dễ thương quá chừng, nôn nóng muốn gặp cha nó nên vội vã nhận lầm ông. Cũng đâu có sao! Điều quan trọng là nó chẳng còn chỗ nào đi nữa, tám tuổi đã tưới rẫy, giờ lang thang đi tìm cha trong thành phố rộng mênh mông, sau ngày giải phóng rối mù như thế này. Hãy để nó ở lại đây ít ngày, ông tạm nhận là cha nó, để nó có chỗ ở. Rồi sau đó ông sẽ chỉ đường cho nó đi tìm cha, hoặc đích thân ông sẽ dẫn nó đi. Nó tìm gặp được cha rồi ông sẽ vỗ vai người đồng đội nói: “Tôi trả con cho anh đây. Tôi đã làm cha nó một thời gian, cũng thấy ấm lòng, đỡ cô đơn một thời gian”. Quả thật ông đã ấm lòng, không phải về sau này mà ngay lúc đó. Đứa nhỏ đang ngồi trong phòng ông cao lớn khỏe mạnh, mắt sáng long lanh, tóc chải rẽ, lưng ưỡn thẳng, chiếc túi xách để trong lòng. Một đứa con bỗng dưng hiện ra như thế này! Đứa con của ông không chết cũng bằng cỡ này, hãy để đứa nhỏ này thay vào chỗ đó. Chỉ ít ngày thôi, hoặc lâu hơn cũng được. Vậy là đứa nhỏ ở với ông, kêu ông bằng ba, bởi ông giả làm như thế. Và nhiều khi ông cũng tưởng lầm như thế. Ngày tháng trôi qua, không thấy ông nói ra sự thật với đứa nhỏ, dẫn nó đi tìm cha nó. Vội làm gì, trước sau rồi nó cũng gặp cha nó thôi. Để ít ngày nữa. Giờ ông đang bận lắm, ông biện bạch như thế, thành phố mới giải phóng đang trong thời kỳ quân quản. Ông đi làm việc suốt ngày, về nhà nhìn thấy đứa con hết mệt ngay. Nó lớn lên trông thấy, chẳng mấy chốc đã cao bằng ông. Phải cho nó ngủ giường riêng, ông đặt hai chiếc giường sát cạnh nhau, đêm nằm thò tay qua nắm tay nó, giở mùng lên nhìn mặt nó. Trước đây ông ăn cơm chung với anh em ở nhà bếp, giờ ông lãnh cơm về nhà hai cha con ăn với nhau. Buổi trưa buổi chiều hai cha con đi lãnh cơm, ông rề rà ở nhà bếp khoe với mọi người đứa con mình thế này thế nọ… Ông quên hẳn chuyện đưa đứa nhỏ đi tìm cha nó chăng? Không, ông không quên. Ban đêm ông vẫn nằm thao thức tính đến chuyện đường đi nước bước, phải tìm đến chỗ nào gặp đơn vị nào. Nhưng ban ngày ông chỉ tính chuyện hiện tại. Phải lo cho nó đi học, tìm nhà riêng cho nó, chọn cho nó một nghề sống về sau này… Chắc cha thật nó cũng muốn như vậy. (Lược phần sau: Khi đứa con học xong, có nghề nghiệp ổn định và chuẩn bị cưới vợ, ông Tám Khoa quyết định đi tìm cha ruột cho nó. Gặp cha ruột của con, ông biết chính người con nuôi cũng đã biết sự thật. Anh đã thực sự coi ông như một người cha, tự nguyện lãnh trách nhiệm phụng dưỡng ông tuổi xế chiều. Hai người cha vui mừng cùng chuẩn bị làm đám cưới cho người con)

(Trích Hai người cha, Tuyển tập truyện ngắn Lê Văn Thảo, NXB Văn học, 2012)* Lê Văn Thảo tên thật là Dương Ngọc Huy, sinh năm 1939 tại huyện Thủ Thừa, tỉnh Long An. Lê Văn Thảo là một mẫu nhà văn vừa cầm bút vừa cầm súng, gan dạ dũng cảm như một chiến sĩ thực thụ với tư cách phóng viên mặt trận. Trải nghiệm chiến tranh, trải nghiệm cuộc sống với tất cả những bi tráng hào hùng thấm sâu vào máu thịt tâm hồn. Ông đã từng đạt Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật, 2007, Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật, 2012 cho các tác phẩm Con đường xuyên rừng, Tuyển tập truyện ngắn. Lê Văn Thảo đã góp phần lớn cho diện mạo văn học Việt Nam đương đại kể cả tới sau này trong nhiều sự kiện hội nhập thế giới. Đặc biệt, ông được coi là người có ảnh hưởng quan trọng đối với sự phát triển văn học Thành phố Hồ Chí Minh kể cả tới thời kỳ mở cửa sau này.



0
phân tích truyện "Hai người cha" của Lê Văn Thảo HAI NGƯỜI CHA (Lược phần đầu: Tám Khoa là một người lính, vợ con ông đã chết trong chiến tranh. Sau ngày giải phóng, có đứa con trai hỏi đúng tên họ, đến tìm và nhận là con ông, nó cười mãi trong niềm vui khôn tả. Đứa nhỏ kể về hoàn cảnh cực khổ của mình) […] “Thôi được rồi, con ở lại đây đi”, Tám Khoa nói, làm dấu chấm cuối...
Đọc tiếp



phân tích truyện "Hai người cha" của Lê Văn Thảo HAI NGƯỜI CHA (Lược phần đầu: Tám Khoa là một người lính, vợ con ông đã chết trong chiến tranh. Sau ngày giải phóng, có đứa con trai hỏi đúng tên họ, đến tìm và nhận là con ông, nó cười mãi trong niềm vui khôn tả. Đứa nhỏ kể về hoàn cảnh cực khổ của mình) […] “Thôi được rồi, con ở lại đây đi”, Tám Khoa nói, làm dấu chấm cuối cùng cho một quyết định mơ hồ, vô lý nhưng không thể nào cưỡng lại được.Bởi đứa nhỏ đâu phải con ông. Ông đúng tên họ đó, ở đơn vị đó, nhưng hồi đơn vị hành quân về Cà Mau ông đâu có đi. Cả đời ông cũng chưa từng về vùng đó. Ông có vợ con nhưng chết cả rồi, tự tay ông chôn cất, trong chiến tranh ở rừng miền Đông. Nhưng đó là chuyện đã qua. Giờ đứa nhỏ đang ngồi trước mặt ông, dễ thương quá chừng, nôn nóng muốn gặp cha nó nên vội vã nhận lầm ông. Cũng đâu có sao! Điều quan trọng là nó chẳng còn chỗ nào đi nữa, tám tuổi đã tưới rẫy, giờ lang thang đi tìm cha trong thành phố rộng mênh mông, sau ngày giải phóng rối mù như thế này. Hãy để nó ở lại đây ít ngày, ông tạm nhận là cha nó, để nó có chỗ ở. Rồi sau đó ông sẽ chỉ đường cho nó đi tìm cha, hoặc đích thân ông sẽ dẫn nó đi. Nó tìm gặp được cha rồi ông sẽ vỗ vai người đồng đội nói: “Tôi trả con cho anh đây. Tôi đã làm cha nó một thời gian, cũng thấy ấm lòng, đỡ cô đơn một thời gian”. Quả thật ông đã ấm lòng, không phải về sau này mà ngay lúc đó. Đứa nhỏ đang ngồi trong phòng ông cao lớn khỏe mạnh, mắt sáng long lanh, tóc chải rẽ, lưng ưỡn thẳng, chiếc túi xách để trong lòng. Một đứa con bỗng dưng hiện ra như thế này! Đứa con của ông không chết cũng bằng cỡ này, hãy để đứa nhỏ này thay vào chỗ đó. Chỉ ít ngày thôi, hoặc lâu hơn cũng được. Vậy là đứa nhỏ ở với ông, kêu ông bằng ba, bởi ông giả làm như thế. Và nhiều khi ông cũng tưởng lầm như thế. Ngày tháng trôi qua, không thấy ông nói ra sự thật với đứa nhỏ, dẫn nó đi tìm cha nó. Vội làm gì, trước sau rồi nó cũng gặp cha nó thôi. Để ít ngày nữa. Giờ ông đang bận lắm, ông biện bạch như thế, thành phố mới giải phóng đang trong thời kỳ quân quản. Ông đi làm việc suốt ngày, về nhà nhìn thấy đứa con hết mệt ngay. Nó lớn lên trông thấy, chẳng mấy chốc đã cao bằng ông. Phải cho nó ngủ giường riêng, ông đặt hai chiếc giường sát cạnh nhau, đêm nằm thò tay qua nắm tay nó, giở mùng lên nhìn mặt nó. Trước đây ông ăn cơm chung với anh em ở nhà bếp, giờ ông lãnh cơm về nhà hai cha con ăn với nhau. Buổi trưa buổi chiều hai cha con đi lãnh cơm, ông rề rà ở nhà bếp khoe với mọi người đứa con mình thế này thế nọ… Ông quên hẳn chuyện đưa đứa nhỏ đi tìm cha nó chăng? Không, ông không quên. Ban đêm ông vẫn nằm thao thức tính đến chuyện đường đi nước bước, phải tìm đến chỗ nào gặp đơn vị nào. Nhưng ban ngày ông chỉ tính chuyện hiện tại. Phải lo cho nó đi học, tìm nhà riêng cho nó, chọn cho nó một nghề sống về sau này… Chắc cha thật nó cũng muốn như vậy. (Lược phần sau: Khi đứa con học xong, có nghề nghiệp ổn định và chuẩn bị cưới vợ, ông Tám Khoa quyết định đi tìm cha ruột cho nó. Gặp cha ruột của con, ông biết chính người con nuôi cũng đã biết sự thật. Anh đã thực sự coi ông như một người cha, tự nguyện lãnh trách nhiệm phụng dưỡng ông tuổi xế chiều. Hai người cha vui mừng cùng chuẩn bị làm đám cưới cho người con) (Trích Hai người cha, Tuyển tập truyện ngắn Lê Văn Thảo, NXB Văn học, 2012)* Lê Văn Thảo tên thật là Dương Ngọc Huy, sinh năm 1939 tại huyện Thủ Thừa, tỉnh Long An. Lê Văn Thảo là một mẫu nhà văn vừa cầm bút vừa cầm súng, gan dạ dũng cảm như một chiến sĩ thực thụ với tư cách phóng viên mặt trận. Trải nghiệm chiến tranh, trải nghiệm cuộc sống với tất cả những bi tráng hào hùng thấm sâu vào máu thịt tâm hồn. Ông đã từng đạt Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật, 2007, Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật, 2012 cho các tác phẩm Con đường xuyên rừng, Tuyển tập truyện ngắn. Lê Văn Thảo đã góp phần lớn cho diện mạo văn học Việt Nam đương đại kể cả tới sau này trong nhiều sự kiện hội nhập thế giới. Đặc biệt, ông được coi là người có ảnh hưởng quan trọng đối với sự phát triển văn học Thành phố Hồ Chí Minh kể cả tới thời kỳ mở cửa sau này.


0
26 tháng 4

Olm chào em, cảm ơn đánh giá của em về chất lượng bài giảng của Olm, cảm ơn em đã đồng hành cùng Olm trên hành trình tri thức. Chúc em học tập hiệu quả và vui vẻ cùng Olm em nhé!