kể về 1 trải nghiệm của bản thân em về lòng dũng cảm.
help me
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Câu văn quan trọng nhất thể hiện nội dung, ý nghĩa của truyện ngụ ngôn "Ếch ngồi đáy giếng" là:
"Ếch tưởng bầu trời chỉ bé bằng cái miệng giếng."
Câu này thể hiện tư tưởng chủ đạo của câu chuyện: Khi sống trong môi trường hạn hẹp, thiếu hiểu biết, con người dễ sinh ra kiêu ngạo, chủ quan, tự cho mình là trung tâm, dẫn đến hậu quả đáng tiếc.
4oViệc tự học đóng vai trò vô cùng quan trọng trong quá trình tiếp thu tri thức và phát triển bản thân. Khi tự học, mỗi người có thể chủ động tìm kiếm kiến thức, rèn luyện tư duy độc lập và phát huy khả năng sáng tạo. Không giống như việc học thụ động trên lớp, tự học giúp ta nắm vững kiến thức một cách sâu sắc và bền vững hơn. Bên cạnh đó, thói quen tự học còn rèn luyện tính kiên trì, kỷ luật và khả năng quản lý thời gian hiệu quả. Tuy nhiên, để tự học đạt kết quả tốt, cần có phương pháp hợp lý, tinh thần tự giác và sự kiên trì không ngừng. Trong thời đại công nghệ phát triển, việc tự học trở nên dễ dàng hơn nhờ nguồn tài liệu phong phú trên Internet, nhưng cũng đòi hỏi mỗi người phải biết chọn lọc thông tin chính xác. Vì vậy, tự học không chỉ là một kỹ năng cần thiết mà còn là chìa khóa dẫn đến thành công trong học tập và cuộc sống.
Đoạn thơ trích trong bài “ Rừng mơ” của tác giả Trần Lê Văn làm rung động lòng người bởi vẻ đẹp của bức tranh rừng mơ thơ mộng và hấp dẫn với việc sẻ dụng từ ngữ hình ảnh, phép tu từ đặc sắc. Thật không ngoa khi tác giả sử dụng động từ “ôm” một cách tự nhiên như vậy! Đúng là ngọn núi đầy những cảnh mơ trắng, chúng đan vào nhau nở rộ khắp nơi…Chúng tạo thành một tấm áo khoác lên với họa tiết tinh sảo mà chỉ có bàn tay thiên nhiên mới tạo nên được. Chiếc áo khoác đó tạo nên sự ấm áp cho ngọn núi trong buổi chiều đông vắng lặng này! Và với biện pháp nhân hóa rừng mơ biết “ôm” như thế đã tạo nên sự gần gũi, thân mật và cả một tấm lòng yêu và cảm nhận thiên nhiên dạt dào của tác giả! Câu thứ hai của đoạn thì đã khá rõ. Với độ cao hàng trăm mét so với mực nước biển thì việc những đám mây lẫn quất đầu cành, cuối ngọn cũng là hiển nhiên. Nhưng ý tác giả muốn nói hoa mơ trắng như những đám mây trên bầu trời kết lại vậy! Cách nói cường điệu này làm cho khoảng cách giữa trời và đất như được thu hẹp và trong một lúc tay ta cảm nhận dư vị của trời đất như hòa tan làm một! Gió gợn nhẹ từng cơn hay lòng người gợn lạnh vì gió? Sự tinh tế khi tác giả chọn “gờn gợn” đó là cơn gió nhẹ, mỏng, mơ hồ như những đám mây mà có lúc cũng giống sóng trên một dòng sông, không mạnh, không dồn dập…nhưng lại khiến người ta chạnh lòng. Cũng vì cơn gió ấy mà hương thơm của hoa mơ cứ thoang thoảng “Hương bay gần bay xa.” Hương hoa mơ được gió mang đến và mang đi một cách vô tình và hữu ích, hương hoa cứ quấn lấy ta lúc chặt, lúc hờ hững nhưng sao lại khiến ta sao xuyến một cách lạ kỳ, đó chính là một trong những đạc trưng của loại hoa rừng danh tiếng! Từ vẻ đẹp của thiên nhiên rừng mơ người đọc cảm nhận được tâm hồn nhạy cảm tinh tế, tình yêu thiên nhiên tha thiết, sự gắn bó với quê hương, đất nước của nhà thơ, đồng thời bồi đắp cho người đọc tình yêu và niềm tin niềm tự hào trước vẻ đẹpc ảu quê hương đất nước.
Xuân Quỳnh, một trong những nhà thơ nổi bật của văn học Việt Nam thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, đã để lại những tác phẩm mang tính cá nhân và chân thật. Bà nổi tiếng với phong cách thơ thể hiện tiếng lòng của người phụ nữ nhạy cảm, yêu thương và khao khát hạnh phúc. Bài thơ "Sóng" là một trong những tác phẩm tiêu biểu, thể hiện sâu sắc tình yêu cháy bỏng, thủy chung và đậm tính nữ của bà. Được sáng tác năm 1967 trong chuyến đi thực tế đến vùng biển Diêm Điền, Thái Bình, bài thơ không chỉ là tiếng lòng của một người phụ nữ trong tình yêu mà còn là bài ca về tình yêu vĩnh cửu của con người.
Ngay từ những câu thơ đầu tiên, Xuân Quỳnh đã khéo léo sử dụng các tính từ trái nghĩa để miêu tả bản chất đa chiều của con sóng:
Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ
Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể
Hình ảnh con sóng với sự tương phản giữa "dữ dội - dịu êm," "ồn ào - lặng lẽ" đã mở ra một bức tranh sống động về tính chất đối lập nhưng hòa quyện của tình yêu. Sóng có lúc mạnh mẽ, lúc dịu dàng, cũng như người con gái trong tình yêu, lúc cuồng nhiệt, lúc lặng thầm. Chính sự đối lập này đã làm cho tình yêu trở nên phức tạp và đầy cuốn hút. Bằng cách mượn hình ảnh con sóng rời dòng sông để tìm đến biển lớn, Xuân Quỳnh khéo léo nói lên tâm trạng của người con gái luôn trăn trở, kiếm tìm sự thấu hiểu và tự do trong tình yêu.
Trong những khổ thơ tiếp theo, Xuân Quỳnh đi sâu vào những khát vọng và nỗi lòng của người phụ nữ:
Ôi con sóng ngày xưa
Và ngày sau vẫn thế
Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ
Hình ảnh con sóng nhỏ tan ra giữa biển lớn tượng trưng cho khát vọng bất tử hóa tình yêu, vượt qua mọi giới hạn của thời gian và không gian. Đây là ước mơ của người con gái – được sống hết mình trong tình yêu, được hoà mình vào thiên nhiên, và lưu giữ tình yêu ấy mãi mãi. Thông qua hình ảnh này, Xuân Quỳnh thể hiện mong muốn yêu và được yêu đến cuối đời, không bị giới hạn bởi không gian, thời gian hay bất kỳ sự vật nào.
Sóng" là một bài thơ mang nhiều giá trị nghệ thuật độc đáo và tinh tế. Xuân Quỳnh đã khéo léo sử dụng phép ẩn dụ, mượn hình tượng sóng để thể hiện nội tâm người phụ nữ trong tình yêu. Hình tượng sóng được tạo nên từ những nét tương đồng về tính cách và trạng thái cảm xúc của người con gái. Nhờ đó, độc giả không chỉ cảm nhận được hình ảnh sóng mà còn thấu hiểu sâu sắc tâm trạng của người con gái đang yêu.
Với thể thơ năm chữ và cách ngắt nhịp linh hoạt, bài thơ tạo nên một giai điệu nhẹ nhàng nhưng cũng không kém phần mạnh mẽ, giúp diễn tả các sắc thái khác nhau của tình yêu. Cách lựa chọn ngôn ngữ gần gũi, trong sáng, và tinh tế của Xuân Quỳnh đã làm cho bài thơ trở nên dung dị và dễ đi vào lòng người.
Hai khổ đầu tiên của bài thơ, sóng chỉ đơn thuần là một chi tiết được người con gái chiêm ngưỡng với những suy ngẫm. Nhưng từ hai khổ thơ cuối, hình ảnh sóng và "em" hòa quyện, song hành, trở thành biểu tượng cho tình yêu bất diệt. Khát vọng của em đã tan ra thành “trăm con sóng”; giai điệu của sóng cũng là lời bài hát ca ngợi một tình yêu trường tồn, hòa nhịp cùng biển lớn để "ngàn năm còn vỗ."
Bài thơ "Sóng" của Xuân Quỳnh không chỉ là bài ca về tình yêu đôi lứa mà còn là sự khẳng định về vẻ đẹp của tình yêu - một thứ tình cảm vĩnh hằng và không bao giờ lụi tàn. Qua "Sóng," Xuân Quỳnh gửi gắm thông điệp về khát vọng yêu và được yêu của người phụ nữ, đồng thời thể hiện tiếng nói sâu thẳm của người phụ nữ trong xã hội. Bài thơ là một trong những tác phẩm để lại dấu ấn đậm nét trong lòng người đọc, thể hiện tâm hồn nhạy cảm, yêu thương và đầy nghị lực của nữ sĩ Xuân Quỳnh.
Truyện “Dế Mèn phiêu lưu ký” là một tác phẩm đặc sắc và nổi tiếng của nhà văn Tô Hoài dành cho lứa tuổi thiếu nhi. Đây là một câu chuyện đầy thú vị và hấp dẫn về hành trình phiêu lưu của Dế Mèn qua nhiều vùng đất của các loài vật khác nhau. Chương đầu tiên của chuyện là “Bài học đường đời đầu tiên” đã miêu tả rõ nét cả ngoại hình và tính cách của Dế Mèn, đồng thời đó cũng là câu chuyện về bài học đầu tiên của Dế Mèn.
Ngay phần mở đầu, nhà văn đã giới thiệu một cách chi tiết về chú dế này. Dế Mèn là một chú dế khỏe mạnh, cường tráng và có lối sống khoa học: “Bởi tôi ăn uống điều độ và làm việc có chừng mực nên tôi chóng lớn lắm”, “chẳng bao lâu tôi đã trở thành một chàng dế thanh niên cường tráng”. Dưới cái nhìn tinh tế, trí tưởng tượng phong phú và kỹ lưỡng, Tô Hoài đã tái hiện chân chung của một chàng dế thanh niên thật đẹp và sinh động: “thân hình cường tráng, đôi càng mẫm bóng, những vuốt ở chân và ở khoeo cứng và nhọn hoắt”, “ chỉ cần lia qua là những ngọn cỏ đã ngã rạp xuống”…
Dế Mèn luôn tự tin về bản thân mình, mỗi bước đi của cậu trở nên “trịnh trọng, khoan thai”, cho ra cái dáng điệu của “con nhà võ”. Không chỉ dừng lại ở việc miêu tả hình dáng bên ngoài của Dế Mèn, nhà văn còn đi sâu vào tính cách của chú dế này, cho người đọc cảm nhận một chú dế nhỏ bé cũng có những nét tính cách khác nhau. Dế Mèn là một chú dế tự tin, yêu đời và luôn tự hào về bản thân mình, luôn hãnh diện với bà con hàng xóm vì vẻ ngoại hình và sức mạnh của mình. Nhưng chính từ sự tự hào và tự tin thái quá của tuổi trẻ mà Dế Mèn lại trở thành kiểu tự cao, tự đắc, kiêu căng và xốc nổi.
Dế Mèn đem cái sức mạnh của mình đi để chòng ghẹo hàng xóm chứ không phải là giúp đỡ, hàng xóm chỉ là nhường nhịn không thèm chấp với Mèn nhưng chú lại nghĩ đó là họ sợ mình, không ai dám đối đầu với mình. Chính vì thế sự ảo tưởng ngông cuồng của Dế Mèn lại càng được đà đẩy lên cao, bản thân tự cho mình là “một tay ghê gớm, có thể sắp đứng đầu thiên hạ rồi”. Rồi chính bản tính kiêu căng, hống hách và ngông cuồng ấy của Dế Mèn đã để lại cho chú dế một bài học nhớ đời, bài học đắt giá ấy đã đánh đổi bằng cả mạng sống của anh bạn hàng xóm là Dế Choắt.
Trái ngược hoàn toàn với Dế Mèn, Dế Choắt là một kẻ gầy gò, ốm yếu, bộ dạng không có sức sống lại không có sức làm. Dế Mèn là hàng xóm nhưng lại chỉ biết chê bai, khinh bỉ, khi Dế Choắt nhờ giúp cũng chẳng bận tâm. Bản tính ngông cuồng của Dế Mèn đã nảy ra ý tưởng trêu chị Cốc, hắn rủ Dế Choắt nhưng Dế Choắt thì sợ không dám, còn căn ngăn nhưng không được. Sau khi trêu chị Cốc, Dế Mèn thì chui tọt vào hang sâu của mình lẩn trốn, mà đâu ngờ người bị chị Cốc tóm được lại là Choắt, Dế Choắt đã gánh chịu mọi hậu quả từ trò đùa dại dột của Dế Mèn. Chỉ đến khi Dế Choắt thoi thóp, Dế Mèn mới ân hận nhận ra lỗi lầm, tuy vậy cũng nhờ có Dế Choắt mà Dế Mèn có được bài học quý giá: “Ở đời mà có thói hung hăng bậy bạ, có óc mà không biết nghĩ, sớm muộn cũng mang vạ vào mình đấy”.
Bằng nghệ thuật miêu tả tài tình và bút pháp nhân hóa so sánh điêu luyện, nhà văn Tô Hoài đã cho người đọc thấy được chân dung sống động về một chú dế. Bên cạnh đó còn rút ra những bài học sâu sắc trong cuộc sống, đó là phải luôn biết khiêm tốn, giúp đỡ người khác và khi mắc lỗi phải biết sửa chữa lỗi lầm.
Nghệ thuật lập luận trong phần tố cáo và tuyên bố của Bản Tuyên ngôn Độc lập thể hiện sự kết hợp hoàn hảo giữa lập luận lý trí và cảm xúc, giữa chứng cứ cụ thể và khát vọng tự do của dân tộc. Từ đó, bản Tuyên ngôn không chỉ là một tài liệu lịch sử mà còn là bản tuyên ngôn của tinh thần dân tộc, khát vọng tự do và sự độc lập của nhân dân Việt Nam.
Bài thơ miêu tả cảnh sinh hoạt bình dị, nề nếp, gian khổ, thiếu thốn nhưng hết sức lạc quan, tự tin, yêu đời, yêu thiên nhiên của người chiến sĩ cách mạng.
Vẻ đẹp tinh thần lạc quan, phong thái ung dung của bác Hồ trong cuộc sống cách mạng gian lao ở Pác Bó.. Với người, làm cách mạng và sống hòa hợp với thiên niên là niềm vui lớn.
Giá trị nghệ thuật Tức cảnh Pác Bó- Sử dụng thể thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường luật
- Giọng thơ trong sáng, sâu sắc, thể hiện sự lạc quan trong hoàn cảnh khó khăn
- Ngôn từ sử dụng giản dị, đời thường.
Trên đây là một số tổng hợp nội dung kiến thức về hoàn cảnh sáng tác, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật của bài thơ Tức cảnh Pác Bó. Mời các em cùng tham khảo thêm một số dạng văn mẫu phân tích, cảm nhận bài thơ Tức cảnh Pác Bó hay và chi tiết để hiểu rõ hơn về văn bản:
Hồi cấp hai, mình từng rất sợ nói trước đám đông. Mỗi lần phải phát biểu hay thuyết trình trước lớp, tim mình đập nhanh, tay chân run rẩy, và đầu óc gần như trống rỗng. Nhưng rồi, có một lần, cô giáo tổ chức cuộc thi hùng biện, và mình được chọn làm đại diện nhóm. Ban đầu, mình định từ chối vì quá lo lắng, nhưng rồi mình tự nhủ: "Mình phải thử vượt qua nỗi sợ này!"
Thế là mình tập luyện thật kỹ, đứng trước gương để luyện nói, nhờ bạn bè nghe thử và góp ý. Khi lên sân khấu, dù tim đập mạnh nhưng mình hít một hơi thật sâu và bắt đầu bài nói. Ban đầu còn hơi run, nhưng càng nói, mình càng tự tin hơn. Cuối cùng, mình hoàn thành bài hùng biện trọn vẹn và nhận được tràng pháo tay cổ vũ từ cả lớp.
Từ đó, mình nhận ra rằng dũng cảm không có nghĩa là không sợ hãi, mà là dám đối mặt với nỗi sợ và vượt qua nó.