Nhận xét tình yêu anh dành cho em trong bài thơ Biển của Xuân diệu và tình yêu em dành cho anh trong bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.


d, Nêu lí lẽ, dẫn chứng không ăn nhập trong lập luận
Sóng bắt nguồn và đi về đâu, Xuân Quỳnh như hóa thân vào con sóng để bộc lộ tình yêu, khát vọng tuổi trẻ của mình.

- Một số bài thơ dùng hình tượng “sóng” và “biển” để nói về tình yêu:
+ Bài thơ “Biển” – Xuân Diệu
… Anh xin làm sóng biếc
Hôn mãi cát vàng em
Hôn thật khẽ, thật êm
Hôn êm đềm mãi mãi
Đã hôn rồi, hôn lại
Cho đến mãi muôn đời
Đến tan cả đất trời
Anh mới thôi dào dạt…
+ Bài thơ Biển nhớ - Minh Lý
Em một mình trên biển
Khung trời của riêng anh
Tình em như con sóng
Cuồn cuộn mỗi chiều hè.
Em muốn gửi cho anh
Tình muôn đời thắm mãi
Như bến bờ hoang dại
Yêu mãi biển trong xanh.
Em chờ anh về nhé
Biển mãi gọi tên anh
Gió buồn ru khe khẽ
Lời riêng em ngọt lành.
Về biển khơi anh nhé
Tình nồng bên biển xanh
Con sóng hiền vỗ mãi
Em vẫn hoài chờ anh.
- Qua các bài thơ nói mượn hình tượng “sóng” và “biển” để nói về tình yêu, ta càng thấy rõ nét được những sáng tạo đặc sắc của Nhà thơ Xuân Quỳnh khi viết bài thơ Sóng: âm điệu tự nó tạo thành một hình tượng sóng, phù hợp với nhịp điệu tâm trạng của người con gái đang yêu; hồn thơ của Xuân Quỳnh luôn tự bộc lộ những khát vọng, những say đắm rạo rực, những suy tư day dứt, trăn trở của lòng mình trong tình yêu.

Cách mạng tháng Tám 1945 thành công, Xuân Diệu đến với cuộc đời mới trong niềm vui chào đón, hồ hởi. Một chặng đường mới, những đóng góp mới tiêu biểu nhất trong những năm đầu Cách mạng tháng Tám là Ngọn quốc kỳ và Hội nghị non sông. Xuân Diệu gọi đó là những trường ca “viết bằng hồn”, khi tâm hồn gắn với đất nước và nhân dân, và đất nước đã bước sang trang sử mới. Tứ thơ, lời thơ toả sáng mà ấm áp với bao cảm xúc yêu thương, trân trọng, ngợi ca những biểu tượng về cuộc sống, con người của đất nước mới hồi sinh.
Xuân Diệu cảm kích với ngày hội non sông “Giòng giống Việt thật hả lòng, hả dạ!” và tác giả thắm thiết ngợi ca:
Hội này đây mặt trời dọi với trăng
Cả dân tộc đứng hiên ngang nhật nguyệt
Đất trường cửu ngắm với trời với đất
Nói vô cùng còn mãi nước muôn năm
(Hội nghị non sông)
Ngoài ra phải kể đến những bài thơ đả kích. Càng thiết tha yêu cuộc đời mới càng căm thù những kẻ phá hoại cuộc sống yên lành. Bọn Quốc dân đảng đảo điên tìm mọi cách phá hoại cách mạng. Cách mạng được dân bảo vệ. Chúng hô hào tổng đình công nhưng chợ vẫn họp, cửa hàng vẫn mở. Xuân Diệu viết bài Tổng... bắt đình công để phản đối bọn phản động.
Tổng đình công đấy, nghĩ mà thương
Phố đóng sao mà cửa mở toang?
Tàu điện long cong ra vẫn chạy
Đồng Xuân ầm ĩ họp như thường!
Tổng đình công hỡi, tổng đình công!
Dân chúng sao mà xỏ chúng ông?
Tưởng chắc được dân nên mới tổng
Mà dân không được thế là tong.
(Tổng... bất đình công)
Xuân Diệu vốn không phải là nhà thơ châm biếm. Trước Cách mạng chủ yếu là nhà thơ của tình yêu, tình thương, nỗi buồn nhưng trong một số bài văn viết về người cạo giấy ở văn phòng, viết về một số kẻ lang thang cơ nhỡ kể cả viết về loài vật cũng đã mang ít nhiều chất châm biếm. Có sống những ngày tháng Tám ở Hà Nội mới thấy hết không khí cách mạng của quần chúng và cả thái độ của bọn phản cách mạng. Nhưng cách mạng đã vững bước đi lên, trái tim của Xuân Diệu rạo rực tuổi thanh niên. Chào đón cách mạng ở tuổi 27 nhưng tấm lòng Xuân Diệu đã đến với cách mạng từ phong trào Việt Minh những năm 1943-1944. Anh chứng kiến không khí chuẩn bị chiến tranh của Hà Nội và càng cảm phục:
Đất đào xuống cho biết lòng mỗi phố
Sắt trồng lên, cây ngã xuống ngang tàng,
Đây rầm rầm đêm 19 hiên ngang
Hà Nội đứng với cả lòng biển lửa
(Thủ đô đêm mười chín)
Xuân Diệu thiết tha yêu cuộc sống. Nếu trước đây là lòng yêu đời qua tình yêu lứa đôi, yêu thiên nhiên thì nay tình yêu cụ thể hơn, yêu đất nước, cuộc sống, con người. Bài thơ Trở về viết nhân kỷ niệm Cách mạng tháng Tám mang không khí yêu đời đó, rất thiết tha và tươi thắm:
Cũng bởi vì tôi nhớ, tôi mong
Một sớm mai hồng tôi sẽ lên đường trở lại
Giữa vũ trụ nhân gian trong gia đình xã hội
Giữa quốc gia nhân loại trong thế giới hoà bình
Một sớm mai hồng, vắng một bình minh
Xanh mắt trẻ em
Hồng môi thiếu nữ.
... Tôi phải về nghe dự nhạc đoàn viên
Nhân loại mới nói cười như trẻ nhỏ.
(Trở về)
Xuân Diệu thích nói đến nhân loại mới với niềm hân hoan chào đón:
Trong lúc tầm lên nhân loại mới
Lòng tôi như thể chiếc nong xanh.
Nhân loại mới như lúa tằm đang lên; nhân loại mới nói cười như trẻ nhỏ... cũng chính là nói một phần cho mình. Mình như trẻ lại, hoà nhập với số đông. Và có những câu thơ của Xuân Diệu chân tình đến vồ vập:
Trời ơi quần chúng hóa tình nhân
(Mê quần chúng)
Xuân Diệu đến với quần chúng từ những ngày đầu cách mạng và cảm thấy chất thơ phải được khơi nguồn từ cuộc đời mới:
Có một suối thơ chảy từ gần gũi
Ra xa xôi và lại đến gần quanh
Một suối thơ lá ngọt với hoa lành
Nói trong xóm và giỡn cười dưới phố
(Nguồn thơ mới)
Và Xuân Diệu yêu cái bình dị của cuộc đời. Chẳng có gì thật cao xa mà sao gần gũi:
Đời đáng yêu nhiều lúc có gì đâu
Miếng ván chênh vênh giữa nhịp cầu
Một buổi chiều sương nghe chó sủa
Sân hè thóc trải lượn bồ câu.
Và thật đáng yêu hương vị của làng quê:
Cái nắng ồ lên trong tiếng lá
Một làn gió nhẹ thoảng hương cau.
Và điều quan trọng nhất là cách nhìn cuộc sống. Phải nhìn đời với con mắt tin yêu lòng không u ám, trí không mất phương hướng.
Hãy nhìn đời bằng đôi mắt xanh non
Hãy để trẻ con nói cái ngon của kẹo
Hãy để cho bà nói má thơm của cháu
Hãy nghe tuổi trẻ ca ngợi tình yêu
(Đôi mắt xanh non)
Sau Cách mạng tháng Tám được sống với tư cách công dân, tấm lòng nghệ sĩ là tấm lòng công dân nên cảm hứng với đất nước không làm sao nói hết được: Việt thanh thanh, Việt sắc sảo mặn mà:
Miền Trung Bộ như vòng cung sắp bắn
Dáng em Nam mềm mại chiếc chân giò
Chị Bắc bộ cánh quạt xoè tươi tắn
Ba vẻ cùng biêng biếc một màu tơ
(Việt muôn đời)
Đó là những lời ca, tiếng nói buổi đầu đến với cách mạng. Có một cái gì đó gần gũi, non tơ, đằm thắm như mối duyên đầu:
Cái thuở ban đầu Dân quốc ấy
Nghìn năm chưa dễ mấy ai quên!
Và tình cảm ban đầu ấy ngày càng sâu đậm thiết tha qua năm tháng. Đi vào kháng chiến là quá trình quần chúng hoá của Xuân Diệu. Mỗi nhà thơ có một cách quần chúng hoá. Tố Hữu từ Từ ấy đã bộc lộ xu hướng quần chúng hoá trong Từ ấy với dân nghèo thành thị. Với Tiếng hát trên đê, anh đã quần chúng hoá với nông dân và càng gắn bó với nông dân cách mạng qua Bầm ơi, Bà mẹ Việt Bắc và cao nhất là trong bài Việt Bắc. Xuân Diệu quần chúng hoá với chùm thơ phát động. Xuân Diệu đến với quần chúng sớm nhưng giai đoạn sau có chững lại. Chùm thơ phát động là chùm thơ viết với tấm lòng thương cảm chân tình với người nông dân, với tấm lòng cảm phục. Bà cụ mù loà tìm đến được với ánh sáng mới:
Mẹ dù đau đớn mù loà
Ánh xuân sẽ dọi chan hoà tâm can.
Có lẽ trong những bài thơ viết về phát động quần chúng và cải cách ruộng đất thì những bài thơ của Xuân Diệu vẫn đứng lại được. Trở về với nhân dân là quá trình chuyển biến về nhận thức và tình cảm của tất cả các nhà thơ mới. Mỗi người quần chúng hoá theo một cách riêng. Huy Cận tiến hành quá trình quần chúng hoá từ những năm đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội. Huy Cận đi chậm hơn nhưng lại có nhiều thành tựu đáng kể. Về với vùng mỏ, gắn bó với đời thơ, Huy Cận đã có một mùa thơ bội thu với các tập thơ Trời mỗi ngày lại sáng, Đất nở hoa và Bài thơ cuộc đời. Còn Chế Lan Viên thì bắt đầu quá trình quần chúng hoá trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Theo Xuân Diệu thì “trước Cách mạng, thơ của Chế Lan Viên lạnh, không ấm bằng Hàn Mạc Tử. Có một số bài tình cảm ấm áp nhưng Chế Lan Viên vẫn dựa chủ yếu vào óc! Thơ của Chế Lan Viên là thơ của óc”. Ánh sáng và phù sa là tập thơ bộc lộ rõ rệt nhất quá trình đi từ chân trời một người đến chân trời tất cả”. Chế Lan Viên nói lên nỗi buồn cô đơn và quyết tâm “Phá cô đơn ta hoà hợp với người”. Chế Lan Viên hiểu rõ ngọn nguồn, ánh sáng đã soi rọi và phù sa bồi đắp cho tâm hồn tác giả trong cuộc đời mới. Với Xuân Diệu trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp có một giai đoạn bế tắc, khó viết khoảng từ 1949-1953. Lúc này, Xuân Diệu cảm thấy đứng trên lập trường cái tôi không ổn nữa. Bị khủng hoảng. Tập Dưới sao vàng cũng chìm chìm không gây ấn tượng gì:
Kéo dài tâm trạng lênh đênh
Sống mà lắm lúc như mình bỏ đi.
Khu 4 lúc đó không khí sáng tác có màu sắc riêng đô hội. Cuộc chỉnh huấn 1953 của văn nghệ sĩ đã đem lại cho Xuân Diệu ánh sáng mới:
Bước đầu tuy chưa là bao
Nhưng nghe đã rộng đã cao vô ngần
Tập Riêng chung ghi nhận những bước phát triển về tư tưởng của Xuân Diệu. Xuân Diệu chân tình ngợi ca cuộc sống mới “tôi thẳng thắn ngợi ca nền chuyên chính”. Xuân Diệu muốn đấu tranh chống lại con người xưa cũ của mình, con người hay bi luỵ, bùi ngùi, con người chạy theo hư danh, lá mặt lá trái “hai mặt người trên một mặt người ta”. Tấm lòng của nhà thơ với cuộc đời mới như trái tim hồng.
Một khối hồng đau đáu trong tim
Những câu thơ đẹp của Xuân Diệu ngợi ca đất nước và nhân dân:
Lòng yêu cuộc sống với nhân dân
Mạnh mẽ vươn xa lại toả gần
Đêm hoá làm sương ôm mặt đất
Ngày là nắng ấm giục mùa xuân.
Theo dõi bước đi của nhà thơ cách mạng càng thấy nhà thơ với quần chúng cách mạng là một, ngày càng gắn bó. Như một phương châm, một tâm sự có tính chất tuyên ngôn:
Tôi cùng xương thịt với nhân dân tôi
Cùng đổ mồ hôi, cùng sôi giọt máu
Tôi sống với cuộc đời chiến đấu
Của triệu người yêu dấu gian lao
Cuộc đời thơ của Xuân Diệu mở đầu là những trang thơ lãng mạn nhưng bộc lộ sâu sắc khát vọng tự do và tình yêu vươn tới cái đẹp mộng tưởng. Nửa chặng đường sau thơ Xuân Diệu trở về với cuộc đời thực, gắn bó với Tổ quốc, nhân dân và mang những phẩm chất mới cao đẹp mà thơ Xuân Diệu chưa thể có được trong trường thơ lãng mạn./.
chung minh xuan dieu da tim ra 1 tieng noi moi qua bai tho voi vang

Hình tượng sóng- người phụ nữ đang yêu, hình tượng trung tâm, nổi bật của bài thơ:
+ Mượn sóng để diễn tả nỗi lòng, tình yêu, trái tim phức tạp, tha thiết
+ Sóng có phẩm chất, tính cách giống “em”
- Sóng, những suy nghĩ, trăn trở khi nghĩ về tình yêu
+ Tìm cội nguồn của sóng, và khát vọng muốn được hiểu mình, hiểu người mình yêu và tình yêu
+ Trái tim của tuổi trẻ khát khao yêu thương, quy luật tự nhiên
- Nỗi nhớ, sự chung thủy của người phụ nữ khi yêu
+ Bày tỏ trực tiếp nỗi nhớ thương người yêu
+ Sự tin tưởng, đợi chờ chung thủy trong tình yêu
- Khát vọng tình yêu vĩnh cửu
+ Sự lo âu, trăn trở của người phụ nữ trước cuộc đời dài rộng và tình yêu lớn lao
+ Sóng là biểu tượng cho tình yêu trường tồn, mãnh liệt

- Giống nhau:
+ Cùng mượn hai hình ảnh của thiên nhiên là "sóng" và "biển" để thể hiện cái tôi cá nhân và bộc lộ những cảm xúc trong tình yêu.
- Khác nhau:
+ "Biển" được sáng tác sau Cách mạng tháng Tám nên vượt qua phạm vi tình yêu đôi lứa mà còn là những bồi hồi của người con miền Nam trong những ngày đất nước chia làm hai.
+ Bài thơ “Sóng” được sáng tác vào năm 1967, trong thời kỳ đất nước đang bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ và tay sai. Khi đó, thanh niên trai gái đang tập trung vào cuộc chiến và chỉ đặt bài thơ trong bối cảnh đó, ta mới thấy rõ khát khao của người con gái trong tình yêu.
+ Sóng ẩn dụ cho những quy luật và bản chất của phụ nữ khi yêu và cũng là nỗi nhớ, sự thủy chung và khao khát tình yêu vĩnh cửu của người phụ nữ.
+ Biển là ẩn dụ cho sự sâu sắc trong tình yêu dường như hòa vào cái mênh mông vô hạn của biển khơi. Qua đó ta thấy được sự thiết tha và khao khát gắn bó bên cạnh người mình thương.

Bạn tham khảo nhé !!
Trong các nhà thơ mới, Xuân Diệu có lẽ là một trong những nhà thơ độc đáo nhất với phong cách và cá tính riêng của mình. Giữa những tù túng, chật hẹp, ngang trái, bất công của xã hội đương thời, không ít nhà thơ muốn đến nơi tiên cảnh để thoát li thực tại. Như Chế Lan Viên từng viết:
" Hãy cho tôi một tinh cầu lạnh giáMột vì sao trơ trọi cuối trời xaĐể nơi đó tháng ngày tôi lẩn tránhNhững ưu phiền đau khổ tháng ngày qua"
Với Xuân Diệu thì khác, trái tim yêu đời của người thi sĩ ấy luôn biết ơn thực tại, ông tìm thấy những chân giá trị và niềm vui trong cuộc sống chốn trần gian. Bài thơ Vội vàng đã chứng minh cho điều ấy nơi ông. Đặc biệt, khúc ca về niềm yêu cuộc sống được thể hiện rõ nhất qua đoạn thơ:
"Của ong bướm này đây tuần tháng mật....Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân"
Trước hết, có thể cảm nhận được tình yêu cuộc sống qua cách mà ông cảm nhận về vị thiên nhiên khi nàng xuân bước đến trần gian. Tạo hoá dâng hiến cho đời những thức vị đầy mê đắm, ngọt ngào. Ong bướm đắm chìm trong những bông hoa bung nở dưới làn mưa xuân dịu dàng, nuôi dưỡng mật ngọt khi vào độ "tuần tháng mật". Hương thiên nhiên làm cho ong bướm say mê, ríu rít gọi nhau thưởng thức, tận hưởng. Đồng nội cỏ xanh rì, mơn mởn mọc lên những bông hoa dại ngát hương, rực rỡ điểm tô cho cánh đồng thêm dư vị yêu thương. Những cành non tơ đằm thắm cũng đang "phất phơ", đung đưa mình trong gió xuân nhè nhẹ. Cảnh sắc tuyệt diệu, nên thơ, vườn hồng của cây lá mùa xuân còn được góp vui bằng những khúc nhạc tình mê đắm. Yến anh thi nhau buông lời hát xôn xao, si mê cả một khoảng không gian, cỏ cây chìm đắm trong lời cả ngọt ngào, dịu êm ấy. Cụm từ "này đây" được lặp đi lặp lại kết hợp với phép liệt kê càng thể hiện được sự căng đầy nhựa sống của thiên nhiên, trần gian đang sở hữu cho mình một cung đường mê hoặc khiến bao kẻ khi lỡ bước vào phải mê đắm, ngẩn ngơ.
"Và này đây ánh sáng chớp hàng miMỗi buổi sáng thần vui hằng gõ cửa"
Xuân xanh sẽ không đủ đầy, ấm áp nếu thiếu đi hình ảnh con người bởi con người vốn là chủ thể của thiên nhiên, của cuộc sống. Cảnh sắc đẹp mang đến cho tâm hồn con người niềm thương, sự thư thái và khát khao tận hưởng. Xuân về, mỗi buổi sớm mai chớp hàng mi, ánh sáng tươi mới lại đến, dịu dàng, ấm áp vô cùng. Nắng xuân ngời ngời, nắng xuân mang cả bao hy vọng, mang thần Niềm Vui đến gõ cửa từng nhà, hôn lên từng chồi non của cây trái, hương hoa. Mỗi ngày được thức dậy, tận hưởng vạn vật dào dạt sức xuân là mỗi ngày đáng để sống, đáng để vui, đáng để yêu và được yêu. Bức tranh xuân thật đẹp biết bao, tròn đầy và tình tứ quá. Có lẽ, phải có tâm hồn nhạy cảm và yêu thiên nhiên tha thiết như Xuân Diệu mới viết nên được những vần thơ đẹp đến nao lòng như vậy.
"Tháng giêng ngon như một cặp môi gần;Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa:Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân"
Từ cảnh sắc đất trời được cảm nhận bằng thị giác, tác giả đã sử dụng nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác để ví vẻ đẹp của tháng giêng xuân về. "Cặp môi gần" - hấp dẫn quá, mê đắm quá, tháng giêng với người thi sĩ lúc này đây như hai kẻ đang yêu nhau. Tháng giêng rạo rực, hấp dẫn, mê đắm như bờ môi của người tình nhân vậy. Cách nghĩ suy đầy mới mẻ, từ duy mở của ông hoàng thơ tình Việt Nam mới có lối so sánh, ví von độc đáo đến vậy.
Việc đặt dấu chấm giữa câu: "Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa" đã thể hiện được hai trạng thái đối lập trong cảm xúc của tác giả. Thiên nhiên tuyệt vời đến như thế làm sao mà tôi không "sung sướng" cho được. Nhưng càng sung sướng thì lại càng sợ xuân rồi sẽ đi, cảnh sắc rồi cũng úa tàn, tuổi xuân rồi cũng dần phai. Vì thế mà nhà thơ phải "vội vàng một nửa".
"Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân"
Yêu cuộc sống da diết, yêu thiên nhiên vô bờ, trái tim rung động mê say trước cảnh xuân, tình xuân. Dù đang đắm chìm trong thiên đường tháng giêng ấy nhà thơ vẫn phải tự thúc giục bản thân phải sống vội, sống nhanh lên để tận hưởng hết hương sắc cuộc đời. Phải vội vàng lên để mai này khi hạ đến, xuân tàn cũng không có gì phải tiếc nuối, hoang hoải "hoài xuân" nữa.
Câu thơ cũng như một lời nhắn nhủ giàu ý vị của tác giả tới người đọc về lẽ sống: hãy sống hết mình với tuổi trẻ, tận hưởng và cống hiến cho cuộc đời, hãy sống một tuổi trẻ thật đẹp để khi thanh xuân qua không có gì phải ngậm ngùi hối tiếc.
Đoạn thơ tuy không quá dài nhưng đủ để ta cảm nhận từng đợt sóng lòng mãnh liệt về niềm yêu cuộc sống của thi nhân. Có yêu cuộc đời mới yêu thiên nhiên đến thế, có yêu cuộc đời mới sợ rằng đời sẽ vụt trôi, có yêu cuộc đời mới thấy được mình phải sống có trách nhiệm trong từng giây phút như vậy. Đọc đoạn thơ mà em thấy lòng mình lắng lại, đủ vui, đủ để thấy bản thân mình phải cố gắng nhiều hơn nữa để sống một tuổi trẻ thật ý nghĩa và trọn vẹn nhất.
Anh/chị tham khảo :
Trong các nhà thơ mới, Xuân Diệu có lẽ là một trong những nhà thơ độc đáo nhất với phong cách và cá tính riêng của mình. Giữa những tù túng, chật hẹp, ngang trái, bất công của xã hội đương thời, không ít nhà thơ muốn đến nơi tiên cảnh để thoát li thực tại. Như Chế Lan Viên từng viết:
" Hãy cho tôi một tinh cầu lạnh giáMột vì sao trơ trọi cuối trời xaĐể nơi đó tháng ngày tôi lẩn tránhNhững ưu phiền đau khổ tháng ngày qua"
Với Xuân Diệu thì khác, trái tim yêu đời của người thi sĩ ấy luôn biết ơn thực tại, ông tìm thấy những chân giá trị và niềm vui trong cuộc sống chốn trần gian. Bài thơ Vội vàng đã chứng minh cho điều ấy nơi ông. Đặc biệt, khúc ca về niềm yêu cuộc sống được thể hiện rõ nhất qua đoạn thơ:
"Của ong bướm này đây tuần tháng mật....Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân"
Trước hết, có thể cảm nhận được tình yêu cuộc sống qua cách mà ông cảm nhận về vị thiên nhiên khi nàng xuân bước đến trần gian. Tạo hoá dâng hiến cho đời những thức vị đầy mê đắm, ngọt ngào. Ong bướm đắm chìm trong những bông hoa bung nở dưới làn mưa xuân dịu dàng, nuôi dưỡng mật ngọt khi vào độ "tuần tháng mật". Hương thiên nhiên làm cho ong bướm say mê, ríu rít gọi nhau thưởng thức, tận hưởng. Đồng nội cỏ xanh rì, mơn mởn mọc lên những bông hoa dại ngát hương, rực rỡ điểm tô cho cánh đồng thêm dư vị yêu thương. Những cành non tơ đằm thắm cũng đang "phất phơ", đung đưa mình trong gió xuân nhè nhẹ. Cảnh sắc tuyệt diệu, nên thơ, vườn hồng của cây lá mùa xuân còn được góp vui bằng những khúc nhạc tình mê đắm. Yến anh thi nhau buông lời hát xôn xao, si mê cả một khoảng không gian, cỏ cây chìm đắm trong lời cả ngọt ngào, dịu êm ấy. Cụm từ "này đây" được lặp đi lặp lại kết hợp với phép liệt kê càng thể hiện được sự căng đầy nhựa sống của thiên nhiên, trần gian đang sở hữu cho mình một cung đường mê hoặc khiến bao kẻ khi lỡ bước vào phải mê đắm, ngẩn ngơ.
"Và này đây ánh sáng chớp hàng miMỗi buổi sáng thần vui hằng gõ cửa"
Xuân xanh sẽ không đủ đầy, ấm áp nếu thiếu đi hình ảnh con người bởi con người vốn là chủ thể của thiên nhiên, của cuộc sống. Cảnh sắc đẹp mang đến cho tâm hồn con người niềm thương, sự thư thái và khát khao tận hưởng. Xuân về, mỗi buổi sớm mai chớp hàng mi, ánh sáng tươi mới lại đến, dịu dàng, ấm áp vô cùng. Nắng xuân ngời ngời, nắng xuân mang cả bao hy vọng, mang thần Niềm Vui đến gõ cửa từng nhà, hôn lên từng chồi non của cây trái, hương hoa. Mỗi ngày được thức dậy, tận hưởng vạn vật dào dạt sức xuân là mỗi ngày đáng để sống, đáng để vui, đáng để yêu và được yêu. Bức tranh xuân thật đẹp biết bao, tròn đầy và tình tứ quá. Có lẽ, phải có tâm hồn nhạy cảm và yêu thiên nhiên tha thiết như Xuân Diệu mới viết nên được những vần thơ đẹp đến nao lòng như vậy.
"Tháng giêng ngon như một cặp môi gần;Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa:Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân"
Từ cảnh sắc đất trời được cảm nhận bằng thị giác, tác giả đã sử dụng nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác để ví vẻ đẹp của tháng giêng xuân về. "Cặp môi gần" - hấp dẫn quá, mê đắm quá, tháng giêng với người thi sĩ lúc này đây như hai kẻ đang yêu nhau. Tháng giêng rạo rực, hấp dẫn, mê đắm như bờ môi của người tình nhân vậy. Cách nghĩ suy đầy mới mẻ, từ duy mở của ông hoàng thơ tình Việt Nam mới có lối so sánh, ví von độc đáo đến vậy.
Việc đặt dấu chấm giữa câu: "Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa" đã thể hiện được hai trạng thái đối lập trong cảm xúc của tác giả. Thiên nhiên tuyệt vời đến như thế làm sao mà tôi không "sung sướng" cho được. Nhưng càng sung sướng thì lại càng sợ xuân rồi sẽ đi, cảnh sắc rồi cũng úa tàn, tuổi xuân rồi cũng dần phai. Vì thế mà nhà thơ phải "vội vàng một nửa".
"Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân"
Yêu cuộc sống da diết, yêu thiên nhiên vô bờ, trái tim rung động mê say trước cảnh xuân, tình xuân. Dù đang đắm chìm trong thiên đường tháng giêng ấy nhà thơ vẫn phải tự thúc giục bản thân phải sống vội, sống nhanh lên để tận hưởng hết hương sắc cuộc đời. Phải vội vàng lên để mai này khi hạ đến, xuân tàn cũng không có gì phải tiếc nuối, hoang hoải "hoài xuân" nữa.
Câu thơ cũng như một lời nhắn nhủ giàu ý vị của tác giả tới người đọc về lẽ sống: hãy sống hết mình với tuổi trẻ, tận hưởng và cống hiến cho cuộc đời, hãy sống một tuổi trẻ thật đẹp để khi thanh xuân qua không có gì phải ngậm ngùi hối tiếc.
Đoạn thơ tuy không quá dài nhưng đủ để ta cảm nhận từng đợt sóng lòng mãnh liệt về niềm yêu cuộc sống của thi nhân. Có yêu cuộc đời mới yêu thiên nhiên đến thế, có yêu cuộc đời mới sợ rằng đời sẽ vụt trôi, có yêu cuộc đời mới thấy được mình phải sống có trách nhiệm trong từng giây phút như vậy. Đọc đoạn thơ mà em thấy lòng mình lắng lại, đủ vui, đủ để thấy bản thân mình phải cố gắng nhiều hơn nữa để sống một tuổi trẻ thật ý nghĩa và trọn vẹn nhất.

Tố Hữu trước hết làm thơ phục vụ cho cách mạng, cho lý tưởng của Đảng:
+ Tố Hữu luôn lấy cảm hứng sáng tác từ lý tưởng chiến đấu, vì vậy từ nội dung tới đề tài ông đều hướng tới lý tưởng cách mạng.
+ Tố Hữu xác định nội dung, đề tài, cảm hứng nghệ thuật xuất phát từ những vấn đề liên quan tới đời sống cách mạng, lý tưởng chính trị
+ Thơ Tố Hữu còn là sự kế thừa dòng thơ cách mạng của Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Phan Bội Châu…
+ Tác giả tìm tới, gắn liền với khuynh hướng sử thi, cảm hứng lãng mạn.
+ Giọng thơ tác giả thiết tha, ngọt ngào, giọng của tình thương mến trữ tình của người dân Huế

Bạn tham khảo nhé !!
1. Mở bài
- Giới thiệu khái quát về Xuân Diệu- Dẫn dắt vào đoạn thơ
2. Thân bàia. Tình yêu thiên nhiên của tạo hoá:- Ong bướm đắm chìm trong những bông hoa bung nở dưới làn mưa xuân dịu dàng- Hương thiên nhiên làm cho ong bướm say mê, ríu rít gọi nhau thưởng thức, tận hưởng.- Đồng nội cỏ xanh rì, mơn mởn- Cành non tơ đằm thắm cũng đang "phất phơ", đung đưa mình trong gió xuân nhè nhẹ.- Yến anh thi nhau buông lời hát xôn xao, si mê cả một khoảng không gian- Lòng tác giả cũng rạo rực, say mê trước nàng xuân yêu kiều- Thần Vui gõ cửa mỗi sớm mai- So sánh độc đáo: Tháng giêng - cặp môi gần=> Cung đường tươi đẹp của mùa xuân → Trái tim yêu thiên nhiên tha thiết mới có cảm nhận tinh tế đến như vậy.
b. Yêu cuộc sống nên phải sống vội vàng kẻo bỏ lỡ thời gian:- Càng yêu cuộc sống càng sợ thời gian vụt trôi- Mỗi phút giây đều sung sướng tận hưởng nhưng lòng không quên thúc giục phải vội vã- Phải vội vàng lên để mai này khi hạ đến, xuân tàn cũng không có gì phải tiếc nuối, hoang hoải "hoài xuân" nữa.- Lời nhắn nhủ giàu ý vị của tác giả về lẽ sống: hãy sống hết mình với tuổi trẻ để khi thanh xuân qua không có gì phải ngậm ngùi hối tiếc.
3. Kết bàiKhẳng định lại giá trị của đoạn thơ

1. Mở bài: Giới thiệu tác giả, tác phẩm, đoạn trích.
2. Thân bài:
- Cảm nhận tình yêu cuộc sống của Xuân Diệu qua đoạn thơ
Về nội dung
* Xuân Diệu đã phát hiện ra thiên đường ngay trên mặt đất, không xa lạ mà rất đỗi quen thuộc ngay trong tầm tay của chúng ta:
- Đó là bức tranh thiên nhiên mùa xuân rực rỡ sắc màu, niềm vui và sức sống, được thể hiện qua hàng loạt các hình ảnh : ong bướm, hoa lá, yến anh, tuần tháng mật...
+) Màu sắc: màu xanh rì của đồng nội, màu của lá non, màu của cành tơ phơ phất...=> Gợi hình ảnh non tơ, mơn mởn.
+) Âm thanh: khúc tình si của yến anh
- Bức tranh thiên nhiên ấy còn được vẽ lên với vẻ xuân tình: mối quan hệ của thiên nhiên, cảnh vật được hình dung trong quan hệ như với người yêu, người đang yêu, như tình yêu đôi lứa trẻ tuổi, say đắm. Các cặp hình ảnh sóng đôi như ong bướm, yến anh càng làm bức tranh thiên nhiên thêm tình ý.
=> Xuân Diệu đã khơi dậy vẻ tinh khôi, gợi hình của sự vật, nhà thơ không nhìn sự vật ấy bằng cái nhìn thưởng thức mà bằng cái nhìn luyến ái, khát khao chiếm hữu.
- Bức tranh thiên nhiên đời sống con người càng đằm thắm, đáng yên hơn khi:
“Mỗi……môi gần”
=> Với Xuân Diệu cuộc sống là vui và mùa xuân là đẹp nhất.
* Tâm trạng của nhà thơ
- Niềm sung sướng hân hoan, vui say ngây ngất trước vẻ đẹp của cuộc sống trần gian.
- Tâm trạng vội vàng, nuối tiếc thời gian, nuối tiếc mùa xuân ngay cả khi sống giữa mùa xuân.
Về nghệ thuật
- Mới mẻ trong cách nhìn, cách cảm nhận cuộc sống; quan niệm thẩm mĩ hiện đại; phép điệp, liệt kê, so sánh, chuyển đổi cảm giác.
- Cấu trúc dòng thơ hiện đại.
3. Kết Bài: Đánh giá
Đoạn thơ tiêu biểu cho phong cách thơ Xuân Diệu.
Tình yêu đời của Xuân Diệu đem đến quan niệm nhân sinh tích cực.
Xuân Quỳnh, một trong những nhà thơ nổi bật của văn học Việt Nam thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, đã để lại những tác phẩm mang tính cá nhân và chân thật. Bà nổi tiếng với phong cách thơ thể hiện tiếng lòng của người phụ nữ nhạy cảm, yêu thương và khao khát hạnh phúc. Bài thơ "Sóng" là một trong những tác phẩm tiêu biểu, thể hiện sâu sắc tình yêu cháy bỏng, thủy chung và đậm tính nữ của bà. Được sáng tác năm 1967 trong chuyến đi thực tế đến vùng biển Diêm Điền, Thái Bình, bài thơ không chỉ là tiếng lòng của một người phụ nữ trong tình yêu mà còn là bài ca về tình yêu vĩnh cửu của con người.
Ngay từ những câu thơ đầu tiên, Xuân Quỳnh đã khéo léo sử dụng các tính từ trái nghĩa để miêu tả bản chất đa chiều của con sóng:
Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ
Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể
Hình ảnh con sóng với sự tương phản giữa "dữ dội - dịu êm," "ồn ào - lặng lẽ" đã mở ra một bức tranh sống động về tính chất đối lập nhưng hòa quyện của tình yêu. Sóng có lúc mạnh mẽ, lúc dịu dàng, cũng như người con gái trong tình yêu, lúc cuồng nhiệt, lúc lặng thầm. Chính sự đối lập này đã làm cho tình yêu trở nên phức tạp và đầy cuốn hút. Bằng cách mượn hình ảnh con sóng rời dòng sông để tìm đến biển lớn, Xuân Quỳnh khéo léo nói lên tâm trạng của người con gái luôn trăn trở, kiếm tìm sự thấu hiểu và tự do trong tình yêu.
Trong những khổ thơ tiếp theo, Xuân Quỳnh đi sâu vào những khát vọng và nỗi lòng của người phụ nữ:
Ôi con sóng ngày xưa
Và ngày sau vẫn thế
Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ
Hình ảnh con sóng nhỏ tan ra giữa biển lớn tượng trưng cho khát vọng bất tử hóa tình yêu, vượt qua mọi giới hạn của thời gian và không gian. Đây là ước mơ của người con gái – được sống hết mình trong tình yêu, được hoà mình vào thiên nhiên, và lưu giữ tình yêu ấy mãi mãi. Thông qua hình ảnh này, Xuân Quỳnh thể hiện mong muốn yêu và được yêu đến cuối đời, không bị giới hạn bởi không gian, thời gian hay bất kỳ sự vật nào.
Sóng" là một bài thơ mang nhiều giá trị nghệ thuật độc đáo và tinh tế. Xuân Quỳnh đã khéo léo sử dụng phép ẩn dụ, mượn hình tượng sóng để thể hiện nội tâm người phụ nữ trong tình yêu. Hình tượng sóng được tạo nên từ những nét tương đồng về tính cách và trạng thái cảm xúc của người con gái. Nhờ đó, độc giả không chỉ cảm nhận được hình ảnh sóng mà còn thấu hiểu sâu sắc tâm trạng của người con gái đang yêu.
Với thể thơ năm chữ và cách ngắt nhịp linh hoạt, bài thơ tạo nên một giai điệu nhẹ nhàng nhưng cũng không kém phần mạnh mẽ, giúp diễn tả các sắc thái khác nhau của tình yêu. Cách lựa chọn ngôn ngữ gần gũi, trong sáng, và tinh tế của Xuân Quỳnh đã làm cho bài thơ trở nên dung dị và dễ đi vào lòng người.
Hai khổ đầu tiên của bài thơ, sóng chỉ đơn thuần là một chi tiết được người con gái chiêm ngưỡng với những suy ngẫm. Nhưng từ hai khổ thơ cuối, hình ảnh sóng và "em" hòa quyện, song hành, trở thành biểu tượng cho tình yêu bất diệt. Khát vọng của em đã tan ra thành “trăm con sóng”; giai điệu của sóng cũng là lời bài hát ca ngợi một tình yêu trường tồn, hòa nhịp cùng biển lớn để "ngàn năm còn vỗ."
Bài thơ "Sóng" của Xuân Quỳnh không chỉ là bài ca về tình yêu đôi lứa mà còn là sự khẳng định về vẻ đẹp của tình yêu - một thứ tình cảm vĩnh hằng và không bao giờ lụi tàn. Qua "Sóng," Xuân Quỳnh gửi gắm thông điệp về khát vọng yêu và được yêu của người phụ nữ, đồng thời thể hiện tiếng nói sâu thẳm của người phụ nữ trong xã hội. Bài thơ là một trong những tác phẩm để lại dấu ấn đậm nét trong lòng người đọc, thể hiện tâm hồn nhạy cảm, yêu thương và đầy nghị lực của nữ sĩ Xuân Quỳnh.