kể lại câu chuyện lời ước dưới trăng
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.


Trong cuộc sống, mỗi con người đếu có nhiều ước mơ. Những mơ ước tốt đẹp sẽ giúp cho con người hình dung ra tương lai, hướng về phía trước. Câu chuyện Lời ước dưới trăng sẽ đưa ta đế vô vàn niềm vui và hạnh phúc của những ước mơ cao quý.
Chuyện kể về một cô gái ở ngôi làng nọ với một điều ước thiêng liêng, nhưng đây không phải là ước mơ cho riêng mình mà là ước mơ cho người khác được hạnh phúc. Cô gái sống ở một nơi có tập tục đặc biệt: Rằm tháng Giêng hằng năm, tất cả các cô gái tròn mười lăm tuổi đều đến hồ Hàm Nguyệt ở trong khuôn viên ngôi chùa tại làng để nguyện ước.
Răm tháng Giêng năm ấy, chị gái của một bạn nhỏ vừa tròn tuổi mười lăm được bà gọi về để hưởng tục lệ linh thiêng đó. Khi người chị đi ra khỏi cổng nhà, bạn nhỏ tò mò theo chị để xem. Đến đầu ngõ, bạn nhỏ gặp chị Ngàn. Chị Ngàn bị mù từ bé nhưng đẹp người, đẹp nết. Dáng người mảnh mai, tóc đen mượt, thả dài. Chị nổi tiếng khéo tay, bánh mứt chị làm ngót nhất làng. Chị đang vào tuổi trăng rằm.
Thấy chị dò bước dưới trăng, bạn nhỏ đoán biết được chị đến hồ Hàm Nguyệt để nguyện ước. Bạn nhỏ đến gần và dắt tay chị đi. Vừa đi hai chị em vừa trò truyện thân mật.
Bạn nhỏ tò mò hỏi:
- Chị Ngàn ơi! Lát nữa chị ước điều gì? Có thể cho em biết được không?
Chị Ngàn trầm ngâm, bạn nhỏ nghĩ chị sẽ ước có một gia đình hạnh phúc như những người phụ nữ khác trong làng.
Hai chị em vẫn sánh bước đi dưới trăng. Bầu trời trong xanh, vầng trăng lơ lửng. Anh trăng rải trên cành cây, kẽ lá, phản chiếu trên khuôn mặt thánh thiện của Ngàn.
Hai chị em đến bờ hồ, không khí nơi đây thật trang nghiêm. Tuy có nhiều cô gái khác cũng dến đây nhưng không khí vẫn rất tĩnh mịch, thiêng liêng. Có lẽ từng người đang thầm khấn lời ước cho riêng mình. Vì trong đời mình chỉ có một lần được ước “điều ước linh thiêng” nên mọi người đều ước nguyện những điều mà mình mong muốn nhất. Bạn nhỏ dẫn chị Ngàn đến sát bờ hồ, chị quỳ xuống đưa tay vốc lên làn nước óng ánh dưới trăng rồi áp vào mặt. Ánh trăng huyền diệu đang lung linh trên đôi má và lấp lánh trên mái tóc của chị. Áp tay lên ngực, chị khẽ ước một điều ước linh thiêng của đời chị:
- Con ước gì mẹ chị Yên – Bác hàng xóm cạnh nhà con được khỏi bệnh.
Khẩn xong, gương mặt chị bỗng trở nên rạng rỡ vô cùng. Chị khoan thai đứng lên, mắt ngước lên như nhìn ánh trăng vàng dịu, nhìn bầu trời cao vời vợi, ánh mắt chị sáng lên một niềm vui khó tả. Bạn nhỏ vô cùng ngạc nhiên trước lời khấn của chị. Bạn thắc mắc hỏi:
- Cả đời người chỉ có một cơ hội duy nhất mà sao chị dành điều ước ấy cho người khác?
Trên đường về, hai chị em nắm chặt tay nhau. Chị kể:
- Em ơi! Chị Yên ở xóm ta có hoàn cảnh khốn khó. Rằm tháng Giêng năm ngoái, mẹ của chị ấy bị bệnh nặng. Chị Yên đã phải túc trực chăm sóc mẹ cả ngày lẫn đêm. Lúc trăng lặn, chị đã khóc nức nở khi biết rằng mình không còn cơ hội để ước khi tuổi mười lăm đi qua. Mẹ chị Yên vẫn còn bệnh đến năm nay, chị đã thay chị Yên ước cho mẹ chị ấy sớm khỏi bệnh. Chị mồ côi mẹ nên hiểu được nỗi đau của con người phải mất đi người mẹ yêu quý!
Bạn nhỏ lặng người, xiết chặt bàn tay chị Ngàn, bạn tự nhủ:
- Chị Ngàn ơi! Khi nào em mười lăm tuổi em sẽ ước cho đôi mắt chị được sáng lại.
Những lời ước trong câu chuyện thật ý nghĩa. Đây không phải là mơ ước cho mình mà là ước mơ cho người khác được hạnh phúc, khỏe mạnh. Những lời ước ấy như một lời nhắn nhủ mọi người hãy sống vì mọi người, mở rộng vòng tay nhân ái để san sẻ cùng nỗi bất hạnh của người khác. Chia ngọt sẻ bùi cùng mọi người để hướng tới một ngày mai tươi sáng.
Hatsune Miku
Câu 1. Quê ngoại tôi có một phong tục đáng yêu: Vào đêm rằm tháng Giêng, tất cả các cô gái trong làng tròn mười lăm tuổi đều được đến Hồ Hàm Nguyệt, một hồ nước đẹp và rộng nằm trong khuôn viên chùa làng để rửa mặt bằng nước hồ và nói lên điều nguyện ước của đời mình dưới ánh trăng. Người xưa truyền lại rằng hầu hết lời nguyện ước của các cô gái, sau này đều ứng nghiệm.
Câu 2. Năm nay, chị gái tôi đi học ở xa cũng tròn tuổi trăng rằm. Trước rằm tháng Giêng vài ngày, bà đã cho gọi chị về để hưởng tục lệ linh thiêng này. Đêm thiêng liêng ấy, chị tôi đi rồi, tôi tò mò theo chị để xem. Ra đến cổng, tôi gặp chị Ngàn. Chị Ngàn trạc tuổi như chị tôi. Chị bị mù từ nhỏ nhưng đẹp người đẹp nết. Mái tóc chị dài và óng mượt hiếm thấy. Lúc nào mái tóc ấy cũng thoang thoảng mùi của hoa bưởi, hoa nhài, hoa lan được chị kín đáo gài sau chiếc kẹp tóc. Chị làm bánh, làm mứt ngon nhất làng. Trông thấy chị lần bước ra đường, tôi hiểu chị cũng đi ra hồ như chúng bạn cùng trang lứa. Thương chị, tôi đến bên, dắt chị đi.
Trên đường đi. tôi hỏi chị:
- Chị Ngàn ơi, lát nữa chị định ước điều gì? Chị có thể cho em biết được không?
Chị Ngàn không trả lời tôi. Chị lặng lẽ nghĩ ngợi điều gì đó. Chắc chị cũng sẽ ước như bao cô gái khác: ước sao cho có một cuộc sống gia đình hạnh phúc. Chị tuy không lành lặn như những người khác nhưng đẹp người và chăm chỉ, khéo léo như vậy, chị đáng được hưởng hạnh phúc lắm chứ!
Ánh trăng bát ngát, dịu dàng đậu xuống trần gian. Mặt đất và mọi vật như được nhuộm một màu vàng trong trẻo. Dưới ánh trăng đẹp, tôi nhìn thấy gương mặt chị Ngàn vừa chứa đựng niềm vui thánh thiện, vừa có vẻ gì bí ẩn.
Câu 3. Chị em tôi ra tới hồ, dù có khá nhiều cô gái cùng tới đây nhưng không khí nơi này vẫn tĩnh mịch và chứa đầy vẻ thiêng liêng. Tôi đưa chị Ngàn đến mép hồ. Chị quỳ xuống. rồi từ từ đưa hai lòng bàn tay xuống mặt hồ “vốc” làn nước đẫm ánh trăng áp lên mặt. Ánh trăng lung linh hôn lên má, chảy lên tóc chị. Sau đó, chị chắp hai tay trước ngực, nén xúc động nói khẽ lời cầu nguyện linh thiêng của đời mình:
- Con ước gì... mẹ chị Yên.. bác hàng xóm bên nhà con được khỏi bệnh.
Nói xong, chị từ từ đứng dậy, gương mặt rạng rỡ hạnh phúc.
Tôi nhìn chị ngỡ ngàng: “Cả đời người chỉ được ước một lần, sao chị lại dành điều ước tốt lành cho bác hàng xóm?”
4. Tôi đưa chị Ngàn về trong lặng lẽ và phân vân. Gần đến nhà, chị Ngàn siết chặt tay tôi, nói:
- Em ạ, nhà chị Yên xóm mình nghèo nhất làng. Năm ngoái, chị Yên tròn mười lăm tuổi. Đêm rằm tháng Giêng, mẹ chị ấy đổ bệnh nặng, chị ấy phải chăm sóc mẹ suốt đêm. Khi trăng lặn, biết mình không còn cơ hội nói điều ước thiêng liêng, chị ấy đã khóc như mưa. Nay mẹ chị ấy vẫn bệnh, chị ước thay cho chị Yên. Chị mồ côi mẹ nên chị hiểu nỗi bất hạnh khi không còn mẹ.
Tôi đã hiểu ra rồi. Chị Ngàn ơi, khi nào em mười lăm tuổi, em sẽ...
Theo Phạm Thị Kim Nhường
Ý nghĩa: Những điều ước cao đẹp mang lại niềm vui, niềm hạnh phúc cho mọi người.

đây là bài của mình
Tôi tên là Cuội, làm nghề kiếm củi để đổi gạo sống qua ngày. Một hôm, tôi đang lúi húi chặt cây thì bất ngờ có một con hổ nhỏ xông tới. Không kịp chạy, tôi đành vung rìu lên đánh nhau với nó. Hổ con bị tôi giáng mạnh một rìu vào trán nên ngã lăn quay. Vừa lúc ấy, hổ mẹ về tới nơi. Sợ quá, tôi vội quăng rìu rồi leo tót lên cây để trốn.
Từ trên cao nhìn xuống, tôi thấy hổ mẹ chạy đến gốc cây gần đỏ, bứt mấy cái lá rồi nhai nát mớm cho con. Một lúc sau, hổ con sống lại, vẫy đuôi mừng rỡ. Đợi hổ mẹ tha hổ con đi xa, tôi đào cả gốc cây lạ mang về nhà.
Từ khi có cây thuốc quý, tôi cứu sống được rất nhiều người. Con gái phú ông bị bệnh nặng sắp chết, tôi chữa cho cô ta sống lại. Phú ông gả con gái cho tôi. Hai vợ chồng tôi sống với nhau êm ấm, thuận hoà. Một lần, vợ tôi sảy chân bị ngã vỡ đầu. Tôi đắp rất nhiều lá thuốc mà cô ấy vẫn không tỉnh lại. Thương vợ, tôi nặn thử một bộ óc bằng đất sét, đặt vào đầu như cũ rồi rịt thuốc. Không ngờ, cô ấy sống lại, tươi tỉnh như thường, chỉ khổ nỗi từ đấy mắc chứng hay quên.
Tôi dặn vợ đừng bao giờ tưới nước giải vào cây thuốc quý, nhưng rồi cô ấy đãng trí lại đem thứ nước ô uế đó tưới cho cây. Cây đa lung lay gốc dữ dội, rồi cứ thế lừng lững bay lên trời.
Vừa lúc ấy, tôi đi kiếm củi về, vội nhảy bổ đến túm vào rễ cây cố giữ cây lại. Nhưng cây thuốc cứ bay lên cao, cao mãi kéo cả tôi theo. Bên tai tôi gió rít ù ù. Tôi sợ quá nhắm chặt mắt. Cây bay suốt mấy ngày, mấy đêm rồi dừng lại trên cung trăng. Thế là tôi mãi mãi phải sống cô độc trên mặt trăng lạnh lẽo. Tôi nhớ nhà, nhớ vợ, nhớ quê hương lắm! Tháng nào cũng vậy, cứ đến đêm rằm trăng sáng, tôi lại ngồi dưới gốc cây đa, nhìn xuống trần gian và không nguôi ao ước: "Bao giờ tôi mới được trở về dưới ấy?".

Tham khảo
Một số chi tiết quan trọng:
- Cẩu Khây lên đường diệt yêu tình.
- Cẩu Khây tìm được những người bạn để cùng diệt yêu tình.
- Cẩu Khây và những người bạn đã chiến đấu với yêu tình.
- Yêu tinh quy hàng, bản làng lại đông vui.

Đường quanh co ở giữa hai bên rừng núi phần nhiều là hẹp và xấu lắm, chúng tôi phải cho ngựa dàn hàng một tiến lên.
Ở Pakha, chỗ nghỉ sau cùng tới đây, từ mười hai giờ trưa đến bây giờ gần sáu giờ chiều, mà chỉ đi được chừng ba mươi cây số. Hồi ấy vào trung tuần tháng 2. Trời về tiết xuân, nhưng gặp được lúc ấy cùng ấm áp dễ chịu.
Chúng tôi dừng ngựa lại trước một cái nhà lều rộng lớn, làm trên một khoảng đất san phẳng, lấn vào khu rừng phía tay trái độ bốn năm sào. Lều dựng theo lối ta, mái lợp tranh, ba phía vách bằng phên nứa hãy còn xanh tươi; cửa cũng bằng phên, nhưng đan chưa xong, còn đặt dưới đất. Chỗ này dựng lên để cho những người đi xa nghỉ chân và nhân thể cho bọn người Thổ săn bắn ở vùng này làm nơi tạm trú. Cái lều cao rộng hơn nhà ta ở nhiều lắm, nhưng trống hơn, không có bầy biện gì. ở mặt đất giữa lều, chỉ thấy một đống củi gỗ dấm, một tia khói đưa lên thong thả, với năm ba chiếc ghế thấp vứt bỏ chung quanh. áp theo cả chiều dài bức vách trong cùng và bức vách phía trái, còn có một thứ tầng cũng đan bằng nứa, rộng ngót một thước tây, cao lên tới ngực, buộc vào những cột chống là mấy khúc cây nhỏ mới đẵn về. Thấy có hai người Thổ đang thõng chân nằm ngủ ở trên, tôi đoán đó là một thứ chõng hay một thứ giường phên mới ứng chế.
Gởi người buộc ngựa rồi, chúng tôi vào lều giở bánh tây, cơm nắm, lạp sường và giò chả ra ăn với nhau. Trong lều không có đèn, chúng tôi ngồi quây lấy đống củi bấy giờ đã thổi cháy to lên cho sáng. Những chuyện Mán Thổ núi rừng tất nhiên được dịp đem ra nói. Người thì khoe những cảnh lạ, những điều kỳ quái ghê sợ mà mình đã trải qua; người thì thuật những phen thập tử nhất sinh ở chốn ma thiếng nước độc; nhưng đậm đà nhất là chuyện trăng gió đường rừng, những chuyện hát đúm ở các chợ phiên. Mỗi người đều có một chuyện "tìm hoa" trong làng để nhắc lại.
Nhân đó một người bạn kể cho tôi nghe những bước phiêu lưu của một người đàn ông mà thỉnh thoảng tôi được gặp trong cái thì giờ đứng uống bát nước ở một hàng quán. Ông này là người Kinh, nhưng nét mặt với tiếng nói thì y như người Thổ; vóc trông đẫy đà lực lưỡng, bao giờ cũng mặc một bộ quần áo bằng vải ka-ki. Ông ta rất táo tợn; trong bọn đi rừng đến cả người Thổ cũng phục ông ta là người thạo và xông pha nhất. Họ gọi ông là Ba-đi-ghệt nhưng cái sính đi ghệt ông ta đã bỏ, chỉ còn lưu lại cái tên hiệu thôi - Ông Ba chẳng ở lâu được một chỗ nào; gặp việc gì ở đâu cũng nhận làm ngay, thấy cái gì cũng buôn: gỗ, vải vóc, thuốc phiện lậu, xương hùm, nấm hương, nhung hươu, đủ mọi thứ. Có một điều ai cũng chú ý nhất mà ông vẫn đem khoe với bất kỳ người nào muốn nghe chuyện, là đến đâu, ở đâu ông ta cũng tìm được một người con gái kết duyên hờ với mình. ở với nhau được ít ngày rồi một hôm, người con gái Thổ thấy ông ta đi không bao giờ trở về nữa. Tôi chưa ngồi nói chuyện với ông Ba-đi-ghệt bao giờ nên không biết rõ tâm địa của người đàn ông ấy. Nhưng tôi xem ra thì không mấy người ưa. Họ bảo rằng ông ta bạo dạn thì không ai hơn, nhưng mà giảo quyệt nham hiểm cũng không ai bằng nữa.
Ăn uống xong, tôi để các bạn ngồi đó, rải áo khoác lên chiếc chõng bên cạnh một cái cửa sổ mắt cáo rồi nhẩy lên ngả lưng. Tôi duỗi thẳng chân ra nằm, vươn vai mà thở một hơi thực dài đuổi hết những cái mệt nhọc nặng nề từ trước. Không gì khoái bằng được nghỉ ngơi sau một cuộc treo non lội suối đường trường.
Hai người Thổ vẫn ngủ say, tiếng ngáy rờn rợn. Các bạn đi đường thì bàn nhau vào ngủ trong làng, nhân tiện để tìm mấy đoá hoa rừng. Hôm ấy có cuộc hát thi, vì gặp ngày làng mở hội.
Tôi lẳng lặng nhắm mắt không trả lời ai hết, vì tôi không muốn theo họ và để phí mất lúc khoan khoái dễ chịu bấy giờ. Tâm hồn tôi thấy bâng khuâng như nằm ở trên mây, trí tưởng tượng chập chờn... rồi giấc ngủ dịu dàng dần tới.
Tôi mở mắt ra thì trăng xuyên qua khung cửa sổ mắt cáo đã đặt trên mình tôi những mảng sáng vuông nhỏ. Bấy giờ có lẽ đã nửa đêm, hai người Thổ không còn ngủ gần tôi, mà các bạn người Kinh cũng đi cả.
Tôi không muốn ngồi dậy, cứ để nguyên giầy mà nằm yên đó, hai mắt lim dim.
Nhưng tôi không buồn ngủ thêm nữa.
Trong mình thấy tỉnh táo vui lắm. Huyết mạch lưu thông như gió thổi; tôi tưởng chừng có thứ thuốc tiên trong thân thể, khiến cho người tôi bỗng chốc thành khinh khoái như bay...
Tôi lắng tai nghe, một dải suối róc rách ở gần, tiếng sóng như thuỷ tinh reo vào trong thứ giọng rù rì tối tăm của những côn trùng dưới cỏ. Sau lều thì khu rừng cây yên lặng như ngủ kỹ, nhưng ở trong đưa những tiếng bí mật, khiến cho mình cảm thấy được cái sinh hoạt của nó trong lúc đêm khuya. Một con hươu đang ngẩn ngơ nhìn cái lều vắng không. Những tiếng rất nhẹ của con sóc chạy trên cành; những tiếng lá cựa dưới mình một con vật đang nằm, một tiếng vỗ cánh nặng nề của con chim lớn. Từng trận gió thổi qua, một loạt lá rơi rào rạt, rồi tát cả lại im lặng như ngóng đợi, như nín hơi. Xa xa, rõ thực xa, giọng thác ào ào, để ý thì mỗi lúc thấy gần thêm, rồi lại xa dần, rồi lại như biến mất. Có khi nghe như tiếng muôn nghìn người ồn ào đưa từ đâu tới; phảng phất trong trí não tôi hình dung ra cảnh chợ búa xe pháo ở chốn thị thành.
Tôi cứ nằm đó nghe hoài. Nghe càng lâu muôn tiếng càng hỗn độn. Sau cùng thành một thứ giọng rì rào mờ ám mỗi khắc một nhạt dần.
Thần trí lại chịu một sức thôi miên ma tuý đưa lại đâu từ chốn bồng lai. Văng vẳng trên không, chỉ còn những tiếng nhạc gần rồi lại xa, với những hơi sáo rất nhỏ, rất trong và cao tít.
Bỗng đâu, một cơn gió lạnh thổi qua làm tôi hơi rùng mình. Tôi thở dài rồi hé mắt; trên lông mi những phấn bụi ánh sáng đang nhẩy nhót rập rờn. Tôi lại thấy như không phải nằm đó một mình... Hình như có ai đứng bên tôi. Mà "ai" đó hình như là một người thiếu nữ. Tôi chức đó chỉ là hình ảnh của sự mơ màng thôi, nên cứ lặng yên, bỗng thấy một bàn tay, một bàn tay nhỏ bé dịu dàng, êm ái để lên vai tôi:
- Đêm trăng sáng đẹp như thế này mà không đi nghe hát một lúc chơi, lại nằm đây ngủ!...
Câu nói tiếng Thổ, giọng dẻo dang trong trẻo nghe rất hay. Chưa nhìn cũng chắc người đứng đó là đẹp lắm. Tay người thiếu nữ lại lay tôi lần nữa.
Tôi mở hẳn mắ nhìn thì cô ta nhoẻn miệng cười:
- Đi dậy đi anh. Dậy đi chơi một tí!
Cô ta đứng trước cái cửa sổ vách liếp và ngảnh mặt ra phía rừng. Người trạc mười chín, hai mươi, hai mắt tinh anh, đẹp lạ thường, đôi má đầy, mơn mởn đào non, nhỏ và mướt.
Trời ơi! Con gái thổ mà có người nhan sắc đến thế này ư? Tôi mơ hay tỉnh?
Tôi nghĩ bụng thế, rồi ngồi dậy, thì ra tỉnh chứ không phải mơ.
Tôi hỏi cô ta:
- Cô em ở đâu đến?
- Tôi ở trong làng (Cô vừa nói vừa lấy bàn tay lau miệng).
- Làng có xa không?
- Không xa lắm.
- Cô em có đi với ai nữa không?
- Không.
Tôi bối rối quá, vì cô ta bỗng dưng có vẻ thẹn. Tôi ngẩn người ra, không biết hỏi thêm câu gì. Tôi nhìn cô ta một lúc lâu, cô ta ngẩng lên nhìn tôi rồi trông đi chỗ khác.
Giá tôi đừng nín lặng, hỏi chuyện nữa đi mới phải. Nhưng biết hỏi gì? Những phút đối diện yên lặng ấy sao mà dài và khó chịu đến thế!
Tôi ngượng nghịu quá chừng. Xin thú thực rằng xưa nay tôi nói đùa với các chị con gái Thổ đã nhiều, nhưng tôi đều coi thường, không để ý gì đến ai hết. Cũng nhiều cô kháu lắm, song không ai có thể gọi là đẹp, đẹp trong trẻo và say đắm như cô gái này.
Tôi nghĩ mãi, mà chẳng có câu nào cho hợp lúc cả, mãi sau mới hỏi lên được:
- Cô em ở đâu đến?
Thì lại là câu mình đã hỏi rồi.
Cô con gái nhìn tôi hơi ngạc nhiên, song cũng đáp:
- Tôi ở trong làng.
- Gần không?
- Không xa lắm.
- Nhưng cô em đi đâu thế?
Cô Thổ đã hết thẹn, tươi cười nét mặt và nhanh nhẹn trả lời:
- Tôi đi chơi. Tôi đến đây thấy có ngựa buộc ở ngoài kia, tôi vào, không có ai, chỉ có anh ngủ... Tôi vào rủ anh đi nói chuyện chơi.
Rồi cô cười, mà cười quá chừng; tiếng cười giòn và đầy đặn. Tôi cũng cười góp nhưng nghĩ thầm:
- Quái lạ, chả nhẽ người này lẳng lơ đến nỗi đi tìm một người đàn ông ngủ một mình để nói chuyện với, hay sao?
Tôi nhìn người thiếu nữ một lần nữa: Không! Cô ta chỉ có vẻ đẹp, trong sạch và rất đáng yêu quý thôi. Đôi mày đưa cong lên ở dưới trán bịt khăn chàm, có vẻ kín đáo ý nhị, tôi ưa nhìn quá. Tôi hỏi cô:
- Thế cô em vào đã lâu chưa?
- Vào lâu rồi. Tôi xem anh ngủ mãi.
- Tôi không ngủ, mà sao tôi không biết.
- Anh ngủ đấy mà!
Cô vừa thong thả nói lại vừa cười. Cô cười sao xinh thế! Con người nhan sắc mà có duyên thay.
- Này cô em...
Cô bé nhìn tôi, nhưng tôi không tiện hỏi câu ấy. Miệng cô vẫn hé mở, để lộ ra một nét trắng nhỏ của đầu hàng răng trên. Cô lại ưỡn ẹo dựa cái thân mềm mại vào chân tôi, làm cho tôi gợn cả người lên và không nghĩ đến những cái vẩn vơ như trước nữa. Tôi mỉm cười và liều để tay lên vai cô ta. Người con gái nói luôn:
- Anh nhé, anh đi chơi nói chuyện với tôi nhé. Tôi... tôi đến rủ anh đi chơi...
- Cô thích đi chơi với tôi à?
- Thích. Mà thế nào cũng đi nhé?
- Ở đây nói chuyện cũng được chớ sao?
Nói rồi, tôi liền xốc nách bế cô ngồi lên với tôi, và lấy áo phủ khoác cho tấm thân xinh bé ấy. Cô ta có ý không bằng lòng, bỏ áo của tôi xuống và ngồi nhích ra một chút. Cô mặc một chiếc áo chàm mới, lúc ấy trông thẫm đen, áo cài một bên nách, hở cổ, thân ngắn, tay rộng, thắt ở ngang lưng; chiếc váy cộc cũng bằng vải chàm và cũng mới. Cái đen tối dưới lều trong trẻo dịu dàng; chúng tôi hình như ở dưới bóng rợp của một thứ "nắng trăng". Cửa trước lều không đóng, lại thêm có ba cái cửa sổ mắt cáo ở vách trong, nên chúng tôi trông được rõ mặt nhua và cả những gói hành lý để ở một góc.
Lúc ấy hai tay cô gái thu lại để chồng lên một đùi. Chân cô buông thõng và hơi đưa đẩy, nét mặt cô có vẻ buồn bực làm cho tôi lo ngại.
Tôi lấy tay nhẹ nâng cằm người thiếu nữ rồi kéo lại cho trông tôi:
- Cô em không muốn ngồi với tôi sao?
Cô khẽ mỉm cười:
- Sao không muốn? Không thì tôi "lại với anh" làm gì?
- Thế cô m...

* Tranh số 1: Cuộc thi nhảy xa bên hố cát cạnh con mương của bọn trẻ trong làng do chị Hà làm trọng tài, mấy cô cậu tí hon làm khán giả. Hưng Tồ nhảy đầu tiên, nhảy đúng vào miệng hố bên kia, đất lún xuống. Tiếp theo là Dũng Béo đã nhảy qua hố, nhưng chân bị nún sâu vào đất mềm, được các bạn "nhổ" lên. Người thứ ba là Tuấn Sứt từng thi nhảy xa cấp huyện, cậu ta nhảy qua hố như con mèo, rồi ngồi vắt chân chữ ngũ chờ nhận giải.
* Tranh số 2: Tôm Chíp bé nhất, nhảy sau cùng. Mặt cậu đỏ lên ái ngại. Các bạn cười và nói khích. Tôm Chíp tự ái lao lên nhưng đến gần hố cậu ta lại đứng sựng lại. Cả bọn cười, nhao nhao khích bác. Tôm Chíp vừa giận mình, vừa tức bạn, toan khóc. Chị Hà lại an ủi động viên.
* Tranh số 3: Tôm Chíp xin nhảy lại. Sắp đến hố nhảy, nghe thấy tiếng kêu thất thanh bên bờ mương, Tôm Chíp vội chạy vòng qua hố nhảy, lao như bay tới bờ mương kịp cứu được một em bé ở sát mép nước bờ bên kia. Mọi người thở phào.
* Tranh số 4: Chị Hà và một số bạn nhỏ lội qua con mương. Cả bọn đều lè lưỡi không hiểu sao Tôm Chíp làm sao mà "bay" qua được con mương rộng nhường kia. Dũng Béo tuyên bố: "Tôm Chíp vô địch. Nhưng phải khám xem cậu ta có lắp chiếc cánh quạt nào không đã. Cả bọn cười ồ và phục Tôm Chíp ra mặt."

Tranh 1: Nguyễn Khoa Đăng là vị quan án có tài xét xử. Một lần, có anh hàng dầu bị mất cắp tiền, nghi là bị một kẻ mù lấy. Đi hỏi thì người này ra sức chối.
Tranh 2: Bắt giải lên quan, quan sai người múc một chậu nước, rồi bắt anh ta bỏ tiền vào. Chậu nước nổi váng dầu, kẻ cắp hết đường chối cãi. Nghĩ hắn giả mù quan cho lính lấy roi đánh, chỉ ba roi sau hắn đành mở cả hai mắt.
Tranh 3: Trong vùng bọn cướp hoành hành dữ dội. Để bắt bọn cướp quan cho dân sĩ cải trang thành dân phu ngồi trong hòm gỗ có lỗ thông hơi rồi đánh tiếng là hòm vàng bạc của một vị quan sắp về quê đi qua. Bọn cướp mắc mưu cướp lấy đem về tận sào huyệt.
Tranh 4: Về đến nơi, các võ sĩ bất ngờ xông ra, vừa lúc quân triều đình ập đến. Bọn cướp đành chắp tay xin tha mạng.
Ở một làng nọ có phong tục rất đáng yêu. Vào đêm rằm tháng giêng các cô gái tròn 15 tuổi đều đến một cái hồ có dòng nước đẹp nằm trong khuôn viên chùa làng để rửa mặt và cầu những điều nguyện ước của mình. Người xưa truyền rằng hầu hết các lời ước đó đều có ứng nghiệm.
Đêm hôm ấy, chị Ngàn là cô gái mù cũng cùng đi với em gái ra hồ nguyện ước cùng các cô gái trong làng, tò mò theo chị đi ra hồ xem. Trên đường đi em gái hỏi ngàn: “ Chị định ước điều gì, có thể cho em biết được không? Nhưng chị Ngàn không trả lời.Ra tới hồ, dưới ánh trăng thấy mặt chị Ngàn sáng lên chứa một điều gì đó thánh thiện. Thế rồi khi nghe lời ước nguyện của chị Ngàn. Ước cho mẹ con chị yên người hàng xóm bên cạnh nhà được khỏi bệnh. Nghe được điều ước ấy, người em gái ngỡ ngàng: “ Cả đời người chỉ ước được một lần , tại sao lại ước điều tốt lành cho người khác?”
Em gái lại dắt tay ngàn về, trong lòng suy nghĩ phân vân. Ngàn siết chặt tay cô bé và nói: “ nhà chị Yên nghèo nhất làng. Năm ngoái chị Yên tròn mười lăm tuổi. Đêm rằm tháng giêng, mẹ chị ấy đỗ bệnh nặng. Chị ấy phải chăm sóc mẹ suốt đêm. Khi trăng lặn, chị mới chợt nhớ nhưng đã muộn rồi. Chị ấy buồn lắm. Nay, mẹ chị ấy vẫn bệnh, chị ước thay cho chị Yên. Chị mồ côi mẹ nên chị hiểu nỗi bất hạnh khi không còn mẹ “. Đến đây thì đứa em gái mới hiểu ra và thầm nhủ: “ chị Ngàn ơi, khi nào em mười lăm tuổi em sẽ làm như chị làm bây giờ “.
Và lời nguyện ước đã đến với cô bé khi cô ấy tròn 15 tuổi. Cũng dưới ánh trăng rằm cạnh hồ nước, cô bé đến cạnh hồ vốc nước rửa mặt và lặng lẽ nguyện cầu: “ con ước cho mắt chị Ngàn sáng lại:
Lời nguyện ước của cô bé thành hiện thực. chị Ngàn được phẫu thuật mắt miễn phí của hội chữ thập đỏ. Đôi mắt cô ấy sáng lại, cô ấy có gia đình và sống hạnh phúc.
Ở một làng nọ có phong tục rất đáng yêu. Vào đêm rằm tháng giêng các cô gái tròn 15 tuổi đều đến một cái hồ có dòng nước đẹp nằm trong khuôn viên chùa làng để rửa mặt và cầu những điều nguyện ước của mình. Người xưa truyền rằng hầu hết các lời ước đó đều có ứng nghiệm.
Đêm hôm ấy, chị Ngàn là cô gái mù cũng cùng đi với em gái ra hồ nguyện ước cùng các cô gái trong làng, tò mò theo chị đi ra hồ xem. Trên đường đi em gái hỏi ngàn: “ Chị định ước điều gì, có thể cho em biết được không? Nhưng chị Ngàn không trả lời.Ra tới hồ, dưới ánh trăng thấy mặt chị Ngàn sáng lên chứa một điều gì đó thánh thiện. Thế rồi khi nghe lời ước nguyện của chị Ngàn. Ước cho mẹ con chị yên người hàng xóm bên cạnh nhà được khỏi bệnh. Nghe được điều ước ấy, người em gái ngỡ ngàng: “ Cả đời người chỉ ước được một lần , tại sao lại ước điều tốt lành cho người khác?”
Em gái lại dắt tay ngàn về, trong lòng suy nghĩ phân vân. Ngàn siết chặt tay cô bé và nói: “ nhà chị Yên nghèo nhất làng. Năm ngoái chị Yên tròn mười lăm tuổi. Đêm rằm tháng giêng, mẹ chị ấy đỗ bệnh nặng. Chị ấy phải chăm sóc mẹ suốt đêm. Khi trăng lặn, chị mới chợt nhớ nhưng đã muộn rồi. Chị ấy buồn lắm. Nay, mẹ chị ấy vẫn bệnh, chị ước thay cho chị Yên. Chị mồ côi mẹ nên chị hiểu nỗi bất hạnh khi không còn mẹ “. Đến đây thì đứa em gái mới hiểu ra và thầm nhủ: “ chị Ngàn ơi, khi nào em mười lăm tuổi em sẽ làm như chị làm bây giờ “.
Và lời nguyện ước đã đến với cô bé khi cô ấy tròn 15 tuổi. Cũng dưới ánh trăng rằm cạnh hồ nước, cô bé đến cạnh hồ vốc nước rửa mặt và lặng lẽ nguyện cầu: “ con ước cho mắt chị Ngàn sáng lại:
Lời nguyện ước của cô bé thành hiện thực. chị Ngàn được phẫu thuật mắt miễn phí của hội chữ thập đỏ. Đôi mắt cô ấy sáng lại, cô ấy có gia đình và sống hạnh phúc.