nêu 1 số hiểu biết của em về nhạc sĩ Trần hoàn
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.


Tham khảo
Đỗ Nhuận (1922 - 1991) là một nhạc sĩ Việt Nam. Ông là Tổng thư ký đầu tiên của Hội nhạc sĩ Việt Nam khóa I và II từ 1958 đến 1983, một trong những nhạc sĩ tiên phong của âm nhạc cách mạng. Đỗ Nhuận còn là nhạc sĩ Việt Nam đầu tiên viết opera với vở Cô Sao, cũng là tác giả của bản "Du kích sông Thao" nổi tiếng.

- Thông tin chung
- Nguyễn Đức Trung là nhạc sĩ sinh sống và hoạt động chủ yếu tại TP. Hồ Chí Minh.
- Anh từng làm giám khảo cuộc thi “Tiếng hát 50+”, một sân chơi âm nhạc cho người trung niên và cao tuổi, thể hiện vai trò của mình trong việc hỗ trợ văn hóa nghệ thuật cộng đồng
Những đóng góp trong âm nhạc và sáng tác
- Một bài hát nổi bật của anh là “Hạt mưa long lanh”. Trong bài này, anh nói về hình ảnh thanh niên xung phong – màu xanh của tương lai, hy vọng và tinh thần tuổi trẻ.
- Anh cũng sáng tác nhạc phim. Hai bộ phim được nhắc tới mà anh có bài nhạc phim là Giã từ dĩ vàng và Người đàn bà yếu đuối. Việc viết nhạc phim là bước tiến mới trong sự nghiệp sáng tác của anh. Quan điểm và vai trò xã hội
- Anh từng phát biểu về thực trạng trong âm nhạc hiện nay, đặc biệt là chuyện các ca khúc với lời ca thô tục, không phù hợp – anh cho rằng cần có kiểm soát, hậu kiểm cho các sản phẩm âm nhạc để bảo vệ giá trị nghệ thuật và văn hóa.
- Với vị trí là Phó Chủ tịch Hội Âm nhạc TP. HCM, anh có tiếng nói trong vấn đề định hướng thẩm mỹ cho nghệ sĩ trẻ, thúc đẩy âm nhạc lành mạnh, có chiều sâu.
- Thông tin chung
- Nguyễn Đức Trung là nhạc sĩ sinh sống và hoạt động chủ yếu tại TP. Hồ Chí Minh.
- Anh từng làm giám khảo cuộc thi “Tiếng hát 50+”, một sân chơi âm nhạc cho người trung niên và cao tuổi, thể hiện vai trò của mình trong việc hỗ trợ văn hóa nghệ thuật cộng đồng
Những đóng góp trong âm nhạc và sáng tác
- Một bài hát nổi bật của anh là “Hạt mưa long lanh”. Trong bài này, anh nói về hình ảnh thanh niên xung phong – màu xanh của tương lai, hy vọng và tinh thần tuổi trẻ.
- Anh cũng sáng tác nhạc phim. Hai bộ phim được nhắc tới mà anh có bài nhạc phim là Giã từ dĩ vàng và Người đàn bà yếu đuối. Việc viết nhạc phim là bước tiến mới trong sự nghiệp sáng tác của anh. Quan điểm và vai trò xã hội
- Anh từng phát biểu về thực trạng trong âm nhạc hiện nay, đặc biệt là chuyện các ca khúc với lời ca thô tục, không phù hợp – anh cho rằng cần có kiểm soát, hậu kiểm cho các sản phẩm âm nhạc để bảo vệ giá trị nghệ thuật và văn hóa.
- Với vị trí là Phó Chủ tịch Hội Âm nhạc TP. HCM, anh có tiếng nói trong vấn đề định hướng thẩm mỹ cho nghệ sĩ trẻ, thúc đẩy âm nhạc lành mạnh, có chiều sâu

1.Trung bộ:hát Hò, hát Ví và hát Giặm
Nam bộ:hát Lí,....
2.nhịp hai bốn gồm có 2 phách,mỗi phách bằng 1 nốt đen.phách 1 là phách mạnh,phách 2 là phách nhẹ.
còn là lọa nhịp thông dụng,thường được dùng cho các bài hát tập thể,hành khúc,....
3.
Văn Cao (15 tháng 11, 1923 – 10 tháng 7, 1995) là một nhạc sĩ huyền thoại của Việt Nam. Ông là tác giả của "Tiến quân ca" - quốc ca của nướcViệt Nam, đồng thời cũng là một trong những gương mặt quan trọng nhất của tân nhạc. Bên cạnh tư cách là một nhạc sĩ, Văn Cao còn là một họa sĩ,nhà thơ với nhiều tác phẩm giá trị.
Thuộc thế hệ nhạc sĩ tiên phong, Văn Cao tham gia nhóm Đồng Vọng, sáng tác các ca khúc lãng mạn "Bến xuân", "Suối mơ", "Thiên Thai", "Trương Chi",... ghi dấu ấn trong lịch sử tân nhạc Việt Nam. Sau khi gia nhập Việt Minh, Văn Cao viết "Tiến quân ca", "Trường ca Sông Lô", "Tiến về Hà Nội",... trở thành nhạc sĩ tiêu biểu của dòng nhạc kháng chiến.
Sau vụ việc Nhân Văn - Giai Phẩm, Văn Cao phải đi học tập chính trị. Trừ "Tiến quân ca", tất cả những ca khúc của ông cũng giống như các nhạc phẩm tiền chiến khác không được lưu hành ở miền Bắc. Đến cuối thập niên 1980, những nhạc phẩm này mới được biểu diễn trở lại.
Năm 1996, một năm sau khi mất, Văn Cao được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh trong đợt trao giải đầu tiên. Ông cũng đã được Nhà nước Việt Nam trao tặng Huân chương Kháng chiến hạng nhất, Huân chương Độc lậphạng ba, Huân chương Độc lập hạng nhất, Huân chương Hồ Chí Minh[1]
Tên ông cũng được đặt cho nhiều con phố đẹp ở Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Huế, Đà Nẵng, Nam Định,...

- Thông tin chung
- Nguyễn Đức Trung là nhạc sĩ sinh sống và hoạt động chủ yếu tại TP. Hồ Chí Minh.
- Anh từng làm giám khảo cuộc thi “Tiếng hát 50+”, một sân chơi âm nhạc cho người trung niên và cao tuổi, thể hiện vai trò của mình trong việc hỗ trợ văn hóa nghệ thuật cộng đồng
Những đóng góp trong âm nhạc và sáng tác
- Một bài hát nổi bật của anh là “Hạt mưa long lanh”. Trong bài này, anh nói về hình ảnh thanh niên xung phong – màu xanh của tương lai, hy vọng và tinh thần tuổi trẻ.
- Anh cũng sáng tác nhạc phim. Hai bộ phim được nhắc tới mà anh có bài nhạc phim là Giã từ dĩ vàng và Người đàn bà yếu đuối. Việc viết nhạc phim là bước tiến mới trong sự nghiệp sáng tác của anh. Quan điểm và vai trò xã hội
- Anh từng phát biểu về thực trạng trong âm nhạc hiện nay, đặc biệt là chuyện các ca khúc với lời ca thô tục, không phù hợp – anh cho rằng cần có kiểm soát, hậu kiểm cho các sản phẩm âm nhạc để bảo vệ giá trị nghệ thuật và văn hóa.
- Với vị trí là Phó Chủ tịch Hội Âm nhạc TP. HCM, anh có tiếng nói trong vấn đề định hướng thẩm mỹ cho nghệ sĩ trẻ, thúc đẩy âm nhạc lành mạnh, có chiều sâu.

Nhạc thiếu nhi hay nhạc nhi đồng là thể loại âm nhạc được sáng tác dành cho đối tượng trẻ em.Nhạc thiếu nhi có thể mang chức năng giải trí vừa có thể mang chức năng giáo dục,chẳng hạn dùng nhạc đê dạy trẻ em biết về văn hóa của địa phương mình và các nơi khác,về cách cư sử đẹp,về những điều thực tế và về các kỹ năng.Nhiều bài hát thiếu nhi là dân ca;mỗi vùng miền lại có một đặc trưngcủa nhạc thiếu nhi.
- Âm nhạc nói chung và ca hát nói riêng là nhu cầu về tinh thần hết sức cần thiết đối với thiếu nhi. Trước Cách mạng tháng Tám - 1945, những bài hát cho trẻ em thật hiếm hoi. Sau cách mạng, cùng với phong trào thiếu niên, nhi đồng phát triển mạnh, hoạt động ca hát trong các em được quan tâm và bài hát viết cho lứa tuổi này ngày càng được những nhạc sĩ sáng tác chú ý. Hơn nửa thế kỉ qua, đã có hàng ngàn bài hát cho trẻ em ở các lứa tuổi mầm non, nhi đồng, thiếu niên. Có thể nói, trong nền âm nhạc cách mạng Việt Nam hiện đại đã hình thành 1 dòng âm nhạc cho trẻ em. Các bài hát cho trẻ em vang lên trên các sân khấu hội diễn, các phương tiện thông tin đại chúng, trường học, buổi sinh hoạt thiếu nhi ở khắp thành phố, nông thôn, miền núi, ... Các bài hát cho thiếu nhi thật phong phú, đa dạng và giàu tính giáo dục. Nhiều bài hát đã đạt tới trình độ nghệ thuật cao được cả người lớn và trẻ em yêu thích. Có những bài lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, tồn tại lâu dài cùng năm tháng. Có những nhạc sĩ hầu như gắn bó suốt cuộc đời với sự nghiệp sáng tác cho trẻ em. Họ đã đem đến cho lứa tuổi nhỏ những bài ca hồn nhiên, trong sáng, đầy cảm xúc với những hình tượng âm nhạc đẹp đẽ.

nhà Trần duy trì qua 12 vị vua
nhà Trần là triều đại quân chủ chuyên chế trong lịch sử Việt Nam, bắt đầu khi Trần Cảnh lên ngôi vào năm 1225, sau khi được Lý Chiêu Hoàng truyền ngôi. Những năm đầu tiên, Trần Cảnh còn nhỏ tuổi, toàn bộ quyền hành của nhà Trần đều do một tôn thất vai chú của Trần Cảnh là Trần Thủ Độ nắm quyền.
Trong giai đoạn nắm giữ quyền lực, nhà Trần vẫn đóng đô ở Thăng Long - kinh đô triều cũ, tiếp tục mở rộng và phát triển sự hưng thịnh có từ đời nhà Lý. Về chính sách chính trị, các hoàng đế nhà Trần cũng xây dựng bộ máy nhà nước hoàn thiện hơn so với nhà Lý, họ tạo nên một hệ thống đặc biệt, trong đó các Hoàng đế sẽ sớm nhường ngôi cho Thái tử mà lui về làm Thái thượng hoàng, tuy nhiên vẫn cùng vị Hoàng đế mới điều hành chính sự. Việc này được đánh giá là tích cực, khi ngôi Hoàng đế sớm có chủ, tránh được việc tranh giành ngôi vua như triều đại nhà Lý trước đó; và bản thân vị Hoàng đế sẽ tiếp xúc và làm quen việc cai trị cho đến khi trưởng thành. Các mặt kinh tế, xã hội,giáo dục và nghệ thuật cũng hoàn chỉnh hơn và cho thấy Nho giáo, Đạo giáo đã có ảnh hưởng rõ rệt tới triều đại, tạo ra cục diện Tam giáo đồng nguyên, sự cân bằng ảnh hưởng của Phật giáo - Nho giáo - Đạo giáo. Thái thượng hoàng Trần Nhân Tông được coi là một danh nhân văn hóa nổi tiếng, người bảo trợ Phật giáo và Đạo giáo, thành lập Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử nổi tiếng và truyền đến đời nay. Bên cạnh đó, những danh thần Đoàn Nhữ Hài, Mạc Đĩnh Chi, Nguyễn Hiền, Nguyễn Trung Ngạn, Trương Hán Siêu, Chu Văn An, Trần Quang Triều,...là những cái tên nổi danh về tri thức, thơ văn, góp phần to lớn tạo nên thời kỳ nhà Trần hưng thịnh văn hóa.
Dưới triều Trần, lực lượng quân đội đặc biệt được chú trọng phát triển đủ sức đánh dẹp các cuộc nội loạn và đương đầu với quân đội các nước xung quanh. Lực lượng quân đội nhà Trần thiện chiến nhất là thủy binh, rồi kỵ binh, bộ binh, tượng binh....chính sách chia thực ấp cho các thân tộc trong họ, mỗi thế lực trong dòng tộc đều có quân đội tinh nhuệ là nền tản lớn khiến quân đội nhà Trần tiêu diệt được cuộc xâm phạm của quân đội Nhà Nguyên, Đế quốc Mông Cổ qua 3 lần vào năm 1258, 1285 và 1287. Thời gian này xuất hiện một danh tướng kiệt xuất, vốn là tôn thất nhà Trần, chính là Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn; người có vai trò quan trọng trong chiến thắng vào năm 1285 và 1287.
1 .nói về thành Đại La ( Thăng Long thời Lý)
2nói về thời Trần (như bạn anh thư)

Tham khảo từ Wikipedia
Tiziano Vecelli hay Tiziano Vecellio, tiếng Việt phiên âm là Ti-xiêng[1] (khoảng 1473/1490[2] – 27 tháng 8 năm 1576[3] thường được biết đến hơn với tên gọi Titian (phát âm /ˈtɪʃən/) là một danh họa Italia, người lãnh đạo trường phái Venice thế kỷ 16 của phong trào Phục hưng Italia. Ông sinh ra tại Pieve di Cadore, gần Belluno (ở Veneto), thuộc Cộng hoà Venice. Trong cuộc đời của mình, ông thường được gọi là Da Cadore, nghĩa là "đến từ Cadore".
TK :>
Tiziano Vecelli hay Tiziano Vecellio, tiếng Việt phiên âm là Ti-xiêng[1] (khoảng 1473/1490[2] – 27 tháng 8 năm 1576[3] thường được biết đến hơn với tên gọi Titian (phát âm /ˈtɪʃən/) là một danh họa Italia, người lãnh đạo trường phái Venice thế kỷ 16 của phong trào Phục hưng Italia. Ông sinh ra tại Pieve di Cadore, gần Belluno (ở Veneto), thuộc Cộng hoà Venice. Trong cuộc đời của mình, ông thường được gọi là Da Cadore, nghĩa là "đến từ Cadore". Được những người đương thời công nhận là "Mặt trời giữa những ngôi sao nhỏ" (gợi nhớ lại những dòng cuối cùng trong tác phẩm Thần Khúc của Dante), Titian là một trong những họa sĩ Italia đa tài nhất, tinh thông cả về chân dung, phong cảnh và các chủ đề thần thoại và tôn giáo. Những phương pháp sáng tác của ông, đặc biệt trong việc áp dụng và sử dụng màu sắc, sẽ có ảnh hưởng sâu sắc không chỉ với những họa sĩ Italia thời Phục hưng, mà cả với những thế hệ tiếp sau của nghệ thuật phương Tây.[4] Trong cuộc đời khá dài của mình phong cách nghệ thuật của Titian đã thay đổi mạnh mẽ[5] nhưng ông vẫn giữ lại sự chú trọng đặc biệt với màu sắc. Dù những tác phẩm sau này của ông có thể không chứa đựng sự mạnh mẽ, màu sắc tươi sáng như những tác phẩm ban đầu, phong cách vẽ lỏng tay và những sự biến đổi màu sắc huyền ảo là chưa từng có trong lịch sử nghệ thuật phương Tây.


Tham khảo
Trần Quốc Tuấn (Trần Hưng Đạo) là anh hùng dân tộc, nhà văn hóa vĩ đại trong lịch sử Việt Nam. Làm tướng, ông biết dẹp bỏ "thù nhà" dốc lòng báo đền "nợ nước" góp công lớn ba lần đánh bại quân Nguyên. Ông còn là tác giả của hai bộ binh thư và đặc biệt bài "Hịch tướng sĩ" nổi tiếng còn lưu truyền đến ngày nay.
Tham khảo!
– 1300), tên thật là Trần Quốc Tuấn (chữ Hán:陳國峻), tước hiệu Hưng Đạo đại vương, là một nhà chính trị, nhà quân sự, tôn thất hoàng gia Đại Việt thời Trần. Ông được biết đến trong lịch sử Việt Nam với việc chỉ huy quân đội đánh tan hai cuộc xâm lược của quân Nguyên – Mông năm 1285 và năm 1288.
Tham khảo:
Ông tự học nhạc và bắt đầu sáng tác từ năm 16, 17 tuổi. Ông bắt đầu nối tiếng với ca khúc Sơn nữ ca viết năm 20 tuổi khi đang ở chiến khu Quảng Bình. Trần Hoàn tham gia kháng chiến, trải qua nhiều cương vị lãnh đạo các tổ chức văn hóa của đảng, đầu tiên là Đoàn phó đoàn tuyên truyền văn nghệ Trung bộ và Liên khu IV.
Tham khảo:
Ông tự học nhạc và bắt đầu sáng tác từ năm 16, 17 tuổi. Ông bắt đầu nối tiếng với ca khúc Sơn nữ ca viết năm 20 tuổi khi đang ở chiến khu Quảng Bình. Trần Hoàn tham gia kháng chiến, trải qua nhiều cương vị lãnh đạo các tổ chức văn hóa của đảng, đầu tiên là Đoàn phó đoàn tuyên truyền văn nghệ Trung bộ và Liên khu IV.