
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.


Vôngang Amađêu Môda (Wolfgang Amadeus Mozart) - nhạc sĩ, nhà soạn nhạc thiên tài người áo.
Môda sinh ra trong một gia đình nhạc sĩ nghèo ở thành phố Danxbuôc (Salzbourg), miền Nam nước áo. Cha ông là Lêôpôn Môda - phó nhạc sư trong dàn nhạc giáo đường của tòa giám mục Danxbuôc. Ngay từ thuở ban nhỏ, Môda đã nổi tiếng là thần đồng âm nhạc. Lên 5 tuổi, Môda đã tham gia biểu diễn trong dàn nhạc giáo đường Danxbuôc cùng với cha mình. Năm 12 tuổi, Môda đã nhận viết một vở nhạc kịch cho nhà hát ôpêra ở Viên. Năm 14 tuổi, Môda đã sáng tác thành công vở nhạc kịch Vua Mitơriđát xứ Pông và tên tuổi ông đã vang khắp châu Âu. Suốt từ năm 6 tuổi cho đến gần trọn đời mình, Môda được mời đi biểu diễn nhiều nơi, nhiều nước như Đức, Italia, Hà Lan, Pháp, Anh ... Tuy nhiên, ông vẫn sống trong cảnh nghèo khó và bệnh tật. Ông có 6 người con, mà đến 4 người bị chết vì không đủ tiền thuốc thang chạy chữa khi bị ốm đau. Năm 1791, ông nằm liệt giường vì một cơn sốt hiểm nghèo và ít ngày sau thì mất, lúc đó ông mới 36 tuổi.
Môda đã để lại một di sản âm nhạc đồ sộ và vô giá với 626 tác phẩm lớn nhỏ, trong đó có 24 vở ôpêra nổi tiếng, 50 bản giao hưởng, cùng nhiều bản ca khúc, hòa tấu, bài hát trữ tình ... Môda là một trong những người thầy âm nhạc. Ông tìm tòi sự trong sáng, thanh nhàn trong giai điệu và đã đạt tới sự vĩ đại qua sự đơn giản và kiều diễm. Môda thật sự là "một thiên tài phát sáng" như nhận xét của nhạc sĩ Nga Traicôpxki.
--------------------------------------...
Tiểu sử
[sửa] Thời thơ ấu
Wolfgang Amadeus Mozart sinh ngày 27 tháng giêng, 1756, tại Salzburg, Thánh chế La Mã (nay Áo). Leopold Mozart, một nhạc sĩ vĩ cầm và cũng là một giáo viên, đã đích thân giáo dục con trai của ông. Wolfgang không phải cắp sách đến trường; thay vào đó cậu được học tại nhà với cha và chị gái của cậu. Âm nhạc là môn học chính. Tuy nhiên, cậu bé Mozart vẫn được học toán, môn học cậu rất thích, và các môn khác như La tinh, tiếng Pháp, tiếng Ý và một ít tiếng Anh. Cậu cũng đọc rất nhiều văn học kịch nghệ, đó là chất liệu mà cậu sẽ dùng để viết opera sau này.
Wolfgang không thích chơi những trò chơi trẻ con bình thường, trừ phi có liên quan tới âm nhạc. Nhờ sự chăm lo dạy dỗ của người cha, vốn là một nhạc sĩ nổi tiếng của Wien, đến năm 3 tuổi đã nghe hiểu được âm nhạc, 4 tuổi đánh được đàn dương cầm cổ và organ. Cậu bắt đầu soạn nhạc cho đàn phím từ lúc năm tuổi, viết những bản nhạc hòa tấu khi cậu lên sáu. Những bản sônat cho đàn vĩ cầm được xuất bản khi cậu lên tám. Thật ra có thể nói rằng Mozart đã khởi đầu sự nghiệp âm nhạc trước thời gian cậu lên năm và theo đuổi cho đến ngày qua đời, ngót ba mươi năm âm nhạc.
Học vấn của Mozart phát triển cùng những chuyến du lịch, được xem như những cột mốc trong cuộc đời cậu. Khi cậu lên sáu, Wolfgang và người chị, lớn hơn cậu năm tuổi và cũng là một thần đồng âm nhạc, cùng đi với cha của họ đến München. Cuối năm đó họ chơi nhạc cho Hoàng hậu của Viên. Năm lên 7, cậu đã tổ chức những buổi diễn nhạc ở Paris, và được một nhà xuất bản ở đây xuất bản một tập nhạc, gồm 4 bản violon và orcgan. Sau đó, cha cậu lại dẫn cậu đi khắp các nước Ý, Anh..., gia đình Mozart nổi danh khắp những nơi cậu đến, và Wolfgang, với tài năng sớm phát triển của cậu, đã chinh phục mọi người. Quan trọng hơn, Mozart có cơ hội thưởng thức âm nhạc thịnh hành trong các thành phố này. Mozart đã gặp những nhạc sĩ khác và bắt đầu thành hình quan điểm về sự nghiệp của họ.
Mozart có ký ức chi tiết âm nhạc phi thường, ông có thể hợp nhất tinh hoa âm nhạc khác nhau của quốc gia này với quốc gia khác vào trong tác phẩm của mình. Tại Luân Đôn, Mozart gặp Johann Christian Bach, con trai của nhạc gia vĩ đại Johann Sebastian Bach, Christian bị gây ấn tượng, đã trở thành người dẫn dắt nhạc sĩ Mozart trẻ và quan tâm theo dõi sự nghiệp của cậu. Trở về nước, Mozart nghiên cứu tổng phổ âm nhạc của J. C. Bach, và ảnh hưởng của Bach được thể hiện trong tác phẩm của Mozart vào thời gian ấy.
[sửa] Sự nghiệp
Khoảng cuối năm 1769, năng khiếu âm nhạc sớm phát triển của Mozart đã bắt đầu nở rộ, tuy mới chỉ lên mười ba, cậu bắt đầu sự nghiệp sáng tác một cách nghiêm túc. Đức Tổng giám mục tại Salzburg đã chấp nhận Mozart như một nhạc trưởng, bằng cách cấp một khoản thu nhập cho cậu. Hai cha con Mozart đã thực hiện ba chuyến viễn du sang Ý để công diễn, họ đã được công nhận và gây được sự chú ý đến sự nghiệp của cậu trong giới quý tộc ở đó. Tại Milano Mozart được ủy nhiệm viết opera, vở Mitridate. Vở này sau đó, do chính Mozart chỉ huy, đã được tán thưởng nồng nhiệt. Trở về Salzburg, Mozart biên soạn một loạt symphony và nhạc phụng sự cho Giáo hội.
Việc trở về Salzburg của Wolfgang vào 1773 là một trong những cột mốc, lúc ấy có một sự bùng nổ sáng tác khác thường, và một sự chuyển tiếp ra khỏi ảnh hưởng âm nhạc Ý để thiên về phong cách âm nhạc Đức, được đại diện bởi Joseph Haydn.
Vị Tổng giám mục mới, Ngài Hieronymus, Bá tước Colloredo, không mấy hài lòng với tần suất yêu cầu của Mozart. Về phần Mozart, khi thấy mức sống của Salzburg đã tăng lên nhiều, nhưng sự yêu chuộng nghệ thuật thì xuống dốc đáng đau buồn, lúc ấy, mối quan hệ của Mozart với Bá tước Colloredo ngày càng trở nên gay gắt.
Cuối cùng, vào tháng 8 năm 1777, ở tuổi hai mươi mốt, Wolfgang xin từ nhiệm, và Bá tước Colloredo đã đồng ý. Thời gian này, Leopold quyết định rằng ông phải còn ở lại phục vụ nhà thờ. Cho nên Wolfgang cùng mẹ đã chuyển đi München, rồi đến Mannheim.
Trong những thành phố này, Mozart có cơ hội để trình diễn với một số những nhạc sĩ tinh tế nhất Châu Âu, nhưng không có việc làm lâu dài nào.
Tuy vậy, Mozart đã lưu lại Mannheim một ít lâu. Anh đã phải lòng một ca sĩ mười sáu tuổi vừa tài năng vừa xinh đẹp, tiểu thư Aloysia Weber. Wolfgang đã làm kinh hoảng người cha, khiến ông ấy phải ra sức thuyết phục con trai chuyển tới Paris.
Tại Paris, Mozart biên soạn giáo trình âm nhạc, tiếp xúc các nhà xuất bản, viết bất cứ cái gì anh có thể bán hoặc trình diễn - những bản sônat cho đàn violin và đàn phím, một concero cho sáo và thụ cầm, những bản biến tấu đàn phím, và symphony Paris của anh. Nhưng thành phố này tỏ ra là sự chán nản khác. Mozart tiếp tục đánh vật với khoản tài chính eo hẹp và lại bị đè nặng thêm bằng cái chết của người mẹ. Buồn bã và miễn cưỡng, anh trở về Salzburg quê cha, mang theo nợ nần, nhưng tin tưởng rằng viễn cảnh của mình sẽ sáng sủa hơn. Người yêu của anh, tiểu thư Aloysia, trong thời gian ấy đã chuyển đi với gia đình tới Wien, nơi mà người ta muốn cô ấy kết hôn với một diễn viên kiêm họa sĩ tài tử, Joseph Lange.
Khi nhận nhiệm vụ nhạc trưởng và đệm đại phong cầm cho nhà thờ lớn, Mozart cảm thấy những nhiệm vụ đó quá tẻ nhạt. Vào 1781 anh tới München để diễn opera, vở Idomeneo, một thành công rực rỡ. Sau đó, được tòa Tổng giám mục triệu hồi về Wien, Mozart đã tìm thấy một công việc có uy tín. Nhưng mối quan hệ căng thẳng giữa vị giáo sĩ và nhạc sĩ đã khiến Mozart cuối cùng đã tự rút lui vào tháng 6 năm đó.
Có lẽ trong những tháng kế tiếp Mozart đã gặp Haydn lần thứ nhất, người nhạc sĩ này đang viếng thăm Wien. Tình bằng hữu phát triển đã mang lại ảnh hưởng cho tốt công việc của cả hai nhạc sĩ về sau. Mozart, trong thời gian ấy, đã cư ngụ với gia đình Weber, và rồi, vào năm 1782, kết hôn với tiểu thư Constanze, em gái của Aloysia, mặc dù gặp sự phản đối mạnh mẽ của cha ruột. Từ đó, có một sự lãnh đạm giữa Wolfgang và cha của anh mà không bao giờ hàn gắn được. Trong những vấn đề tài chánh, cả Wolfgang lẫn Constanze đều không thận trọng. Họ đã sớm rơi vào tình trạng khó khăn.
Không có khả năng để giữ một sự chỉ địn

Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua ngày 20/11/1959 và đã được thừa nhận trong Tuyên ngôn Toàn thế giới về Quyền con người, trong Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (đặc biệt là các điều 23 và 24), trong Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa (đặc biệt là điều 10), trong những quy chế và văn kiện có liên quan khác của các cơ quan chuyên môn, các tổ chức quốc tế hoạt động vì phúc lợi của trẻ em;
Ghi nhớ rằng, như đã chỉ ra trong Tuyên bố về quyền trẻ em, ”trẻ em, do còn non nớt về thể chất và trí tuệ, cần được chăm sóc và bảo vệ đặc biệt, kể cả sự bảo vệ thích hợp về mặt pháp lý trước cũng như sau khi ra đời”;
Công ước Liên Hiệp Quốc về Quyền trẻ em là một công ước quốc tế quy định các quyền dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa của trẻ em. Các quốc gia phê chuẩn công ước này chịu ràng buộc của các quy định công ước này theo luật quốc tế. Cơ quan giám sát thi hành công ước này là Ủy ban quyền trẻ em Liên Hiệp Quốc bao gồm các thành viên từ các quốc gia trên khắp thế giới. Mỗi năm 1 lần, ủy ban này để trình bày một bản báo cáo cho Ủy ban thứ ba của Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc, và cũng nghe chủ tịch ủy ban công ước này báo cáo, và Đại hội đồng ra 1 nghị quyết về xóa
Các quốc gia đã phê chuẩn công ước này phải báo báo trước Ủy ban về quyền trẻ em Liên Hiệp Quốc theo định kỳ để ủy ban này kiểm tra việc quá trình tiến triển trong việc thực thi công ước và tình trạng quyền trẻ em ở quốc gia đó.
Tất cả các quốc gia trên thế giới là thành viên của Liên Hiệp Quốc, ngoại trừ Hoa Kỳ [1][2][3], đều đã phê chuẩn công ước này. Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc đã phê chuẩn bản công ước này vào luật quốc tế trong một nghị quyết tư vấn vào ngày 20 tháng 11 năm 1989; bản công ước này bắt đầu có hiệu lực từ ngày 2 tháng 9 năm 1990 sau khi đã được số quốc gia phê chuẩn theo quy định. Theo công ước này, trẻ em là người có độ tuổi từ 16 tuổi trở xuống, ngoại trừ độ tuổi khác theo quy định của luật pháp một số nước trên thế giới.
Chính phủ Mỹ đã đóng một vai trò tích cực trong việc soạn thảo Công ước và đã ký kết vào 16 tháng 2 năm 1995, nhưng đã không phê chuẩn cùng với Somalia. Điều này là do phe đối lập đối với Công ước đã chống lại việc phê chuẩn xuất phát chủ yếu từ phe bảo thủ chính trị và tôn giáo. Ví dụ, Quỹ Heritage thấy công ước đe dọa kiểm soát quốc gia về chính sách trong nước. Các nhóm khác cũng phản đối nó, chẳng hạn như Hiệp hội các trường pháp lý Quốc phòng lập luận rằng CRC các đe dọa Giáo dục Tại Nhà, và quyền của cha mẹ các nhóm, những người cho rằng Hiệp định sẽ chồng lên gần như tất cả các luật trong nước về trẻ em và gia đình. Tổng thống Barack Obama đã mô tả việc không phê chuẩn Công ước là "xấu hổ" và đã hứa sẽ xem xét việc này.
Việt Nam là nước đầu tiên ở châu Á và nước thứ 2 trên thế giới phê chuẩn công ước của Liên hiệp quốc về Quyền trẻ em vào ngày 20 tháng 2 năm 1990. Và đối với Việt Nam, những người có độ tuổi dưới 16 tuổi được coi là trẻ em.
Tuy nhiên, tình hình lao động trẻ em tại Việt Nam đang ở mức báo động.[4] Theo thống kê của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, trong năm 2008, cả nước có 26.027 trẻ em phải tham gia vào các hình thức lao động. Nếu thống kê từ năm 2006 thì đã có khoảng 930.000 lao động trẻ em tham gia các hoạt động kinh tế. Một báo cáo chi tiết về tình trạng sử dụng lao động trẻ em được khảo sát tại 8 tỉnh, thành và 3 làng nghề vừa được Viện Khoa học lao động và xã hội công bố cũng đã khiến nhiều người phải giật mình. Kết quả khảo sát cho thấy gần 45% trẻ em phải làm việc trong điều kiện không đảm bảo về nhiệt độ, ánh sáng; gần 40% phải làm việc trong môi trường có nồng độ bụi cao ảnh hưởng đến sức khỏe và trên 27% bị ảnh hưởng của hóa chất độc, ô nhiễm không khí, hơi, khí độc hại nơi làm việc.[5]

1. +) giống nhau: +Đều là người chuyên hoạt động (sáng tác hoặc biểu diễn) trong một bộ môn nghệ thuật
+) khác nhau: + Ca sĩ là người thực hiện, biểu diễn các bài hát bằng giọng ca của bản thân mình với nhiều thể loại nhạc: pop, rock, jazz, ballad, dance, rapper... Hát là một kĩ năng để tạo ra âm thanh bằng giọng hát của chính mình và các âm thanh được phát ra lớn hơn so với nói chuyện bình thường bởi giọng và âm điệu.
Nghệ sĩ là người chuyên hoạt động (sáng tác hoặc biểu diễn) trong một bộ môn nghệ thuật.[1] Nghệ sĩ là người sáng tạo ra loại hình nghệ thuật như vẽ, đồ họa, chạm khắc, chụp ảnh, làm mô hình, diễn kịch sân khấu về các ý tưởng và cảm xúc lành mạnh với văn hóa xã hội
+ Nhạc sĩ (hay còn được gọi là nghệ sĩ âm nhạc), theo Bách khoa toàn thư Việt Nam, được hiểu là một người hoạt động chuyên nghiệp và nắm vững một ngành nghệ thuật âm nhạc nào đó. nhạc sĩ bao gồm tất cả những người hoạt động nghệ thuật âm nhạc như các nhà soạn nhạc (sáng tác giai điệu cho ca khúc), người hòa âm phối khí, nhạc trưởng chỉ huy và nghệ sĩ biểu diễn. là những người sáng tác âm nhạc, còn nghệ sĩ biểu diễn bằng giọng hát được gọi là ca sĩ, bằng nhạc cụ được gọi là nhạc công. Nhạc sĩ thường sáng tác những ca khúc và do chính họ thể hiện hay các ca sĩ thể hiện.
2) Bài làm
Tối hôm qua, em được bố mẹ cho đến quảng trường 2-4 để coi một buổi biểu diễn âm nhạc. Trong tất cả các ca sĩ, em thích nhất là ca sĩ Đông Nhi. Ca sĩ Đông Nhi nhẹ nhàng bước từ phía cánh gà ra sân khấu, cúi đầu chào khán giả. Cô mặc một chiếc váy màu đỏ, lấp lánh sặc sỡ sắc màu làm nổi bật thêm vẻ sôi động của cô.Khuôn mặt cô trắng hồng, có nhiều nét dễ thương. Mái tóc cô dái, bồng bềnh, nhẹ nhàng tựa như một dòng suối nhỏ. Đôi mắt cô hiền dịu, chứa chan bao niềm tin, hi vọng. Vầng trán cao, thông minh. Trên khuôn mặt thanh tú ấy, cái mũi sọc dừa làm cho cô đẹp lên rất nhiều. Đôi môi màu hồng nhạt, khi cười nhìn cô tươi như hoa, đó hoa hông vừa nở sớm mai. Đôi bàn tay cô tròn trịa, trắng trẻo trông rất duyên dáng. Ca sĩ Đông Nhi xinh đẹp với bài hát Boom Boom. Bài hát có giai điệu sôi động khiến cho ai nghe cũng muốn hát theo. Có lúc ca sĩ Đông Nhi còn đi xuống bắt tay, cúi đầu chào khán giả. Sau khi bài hát kết thúc, những tràng vỗ tay, những bó hoa tười thắm dành tặng cho ca sĩ Đông Nhi. Sau buổi biểu diễn, có rất nhiều người đã dành tặng hết những lời khen cho cô. Em rất thích ca sĩ Đông Nhi.

- Lịch sử - Truyền thống
NGUYỄN ĐỨC CẢNH - Một tấm gương sáng ngời của chủ nghĩa anh hùng cách mạng
Cập nhật lúc 14:25, Chủ Nhật, 29/07/2012 (GMT+7)
80 năm kể từ ngày người chiến sĩ cộng sản trẻ tuổi - một trong những lãnh tụ xuất sắc của Đảng ta đi xa, đồng chí Nguyễn Đức Cảnh vẫn mãi là tấm gương sáng và cao đẹp về chủ nghĩa anh hùng cách mạng, về phẩm chất đạo đức trong sáng, cao cả của người cộng sản chân chính. Đồng chí đã trọn đời cống hiến, chiến đấu, hy sinh cho sự nghiệp cách mạng, vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân.
Đồng chí Nguyễn Đức Cảnh sinh ngày 2-2-1908 tại thôn Diêm Điền, xã Thụy Hà, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình, là một trong những người học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
![]() |
Năm 1923, khi tròn 15 tuổi, đồng chí Nguyễn Đức Cảnh học tại Trường Thành Chung Nam Định. Ông đã kết thân với nhiều bạn học có lòng yêu nước, trong đó có Đặng Xuân Khu – tức Tổng Bí thư Trường Chinh. Rời Trường Thành Chung lên Hà Nội làm công nhân nhà in Mạc Đình Tư, ông được bạn bè yêu mến, giúp đỡ và gia nhập đội ngũ công nhân. Từ đây ông bắt đầu nghiên cứu, tìm hiểu về giai cấp công nhân, về những nỗi bất công thống khổ mà họ phải gánh chịu. Tháng 6-1927, Tỉnh bộ Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội Hà Nội được thành lập. Nguyễn Đức Cảnh được cử sang Quảng Châu dự lớp chính trị của Tổng bộ Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội do đồng chí Nguyễn Ái Quốc trực tiếp lên lớp. Qua học tập, càng hiểu sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, càng hun đúc thêm lòng yêu nước, chí khí đấu tranh, tinh thần cách mạng cao cả của người thanh niên vừa chớm tuổi 20 này.
![]() |
Các thầy cô giáo và các em học sinh thăm viếng Tượng đài anh hùng Nguyễn Đức Cảnh tại TP. Hải Phòng. Ảnh: T.L |
Tháng 2-1928, khi vừa tròn 20 tuổi, Nguyễn Đức Cảnh được Kỳ bộ Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội cử làm Bí thư Tỉnh bộ Thanh niên Cách mạng Hải Phòng, sau đó được đề bạt làm Ủy viên Ban Chấp hành Kỳ bộ và được cử làm Bí thư Khu bộ Hải Phòng. Với trọng trách trên, ông đã đem hết sức mình vào việc huấn luyện, đào tạo cán bộ cách mạng truyền bá Chủ nghĩa Mác Lê-nin, phương pháp tổ chức quần chúng đấu tranh cách mạng. Cuối năm 1928, phong trào đấu tranh cách mạng đã khá mạnh ở Bắc Kỳ, ông đã viết tập tài liệu 16 trang với tiêu đề “Tổ chức công hội” nhằm truyền bá Chủ nghĩa Mác Lê-nin, tài liệu đã được tổ chức bí mật in ấn lưu hành trong công nhân. Bước sang năm 1929, phong trào công nhân phát triển hết sức mạnh mẽ, phong trào của nông dân, tiểu tư sản cũng rất sôi nổi. Trước phong trào đấu tranh của quần chúng lao động đang cuồn cuộn trào dâng khắp cả nước, đã đến lúc phải có một đảng thật sự của giai cấp công nhân và nhân dân lao động - Đảng Cộng sản, để tiếp tục đưa cách mạng Việt Nam tiến lên. Cuối tháng 3-1929, những người tích cực trong Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội ở Bắc Kỳ đã họp ở số nhà 5D, phố Hàm Long, Hà Nội để thành lập Chi bộ Cộng sản đầu tiên ở Việt Nam. Đồng chí Nguyễn Đức Cảnh là một trong những thành viên tiêu biểu đó. Ngày 29-3-1929, tại Đại hội Kỳ bộ Thanh niên Bắc Kỳ, sau khi tán thành việc thành lập Đảng Cộng sản, Đại hội đề nghị đồng chí Nguyễn Đức Cảnh phụ trách việc dự thảo Tuyên ngôn, Điều lệ chuẩn bị cho việc thành lập Đảng. Tuy nhiên, do nội bộ Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội có một số không nhất trí với dự định trên nên ngày 17-6-1929, hơn 20 đại biểu các tổ chức cộng sản mới tổ chức ở các tỉnh Bắc Kỳ đã họp ở số nhà 312 phố Khâm Thiên, quyết định thành lập Đông Dương Cộng sản Đảng. Và đồng chí Nguyễn Đức Cảnh cũng là một thành viên tích cực nhất. Sau khi tham gia hội nghị thành lập Đông Dương Cộng sản Đảng, một trong ba tổ chức tiền thân của Đảng cộng sản Việt Nam, ngày 28-7-1929, Nguyễn Đức Cảnh đã chủ trì Hội nghị thành lập Tổng Công hội Đỏ Bắc kỳ. Hội nghị đã nhất trí thông qua chương trình, điều lệ, phương hướng hoạt động và bầu ra Ban Chấp hành lâm thời do đồng chí Nguyễn Đức Cảnh phụ trách. Tại Hội nghị hợp nhất thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (từ ngày 3-2 đến 7-2-1930 tại Hương Cảng, Trung Quốc), đồng chí Nguyễn Đức Cảnh được cử làm Bí thư Xứ ủy Bắc Kỳ, trực tiếp làm Bí thư Tỉnh bộ Hải Phòng. Ông đã kiện toàn 14 chi bộ với 100 đảng viên, phát triển các tổ chức Công hội Đỏ, Nông hội Đỏ, Thanh niên đoàn, Phụ nữ giải phóng và mở nhiều lớp huấn luyện chính trị, tổ chức ấn hành tờ “Sao đỏ” - cơ quan của Tỉnh Đảng bộ, tờ “Tia lửa” - cơ quan của Tỉnh Đoàn thanh niên. Tháng 4-1930, ông đã tổ chức đón, bảo đảm an toàn cho Tổng Bí thư Trần Phú về khảo sát phong trào công nhân Hải Phòng đồng thời đóng góp ý kiến thực tiễn giúp đồng chí Trần Phú khởi thảo Luận cương Chính trị của Đảng năm 1930. Cuối tháng 10-1930, Nguyễn Đức Cảnh được Trung ương Đảng điều động vào tham gia ủy viên xứ ủy Trung kỳ để tăng cường lãnh đạo phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh. Tháng 5-1930, đồng chí được cử làm Bí thư Xứ ủy Bắc kỳ. Tháng 10-1930, trước yêu cầu tăng cường công tác chỉ đạo cuộc khởi nghĩa Xô Viết Nghệ Tĩnh, Nguyễn Đức Cảnh được Trung ương Đảng điều động vào tham gia Xứ ủy Trung Kỳ. Ngày 9-4-1931, sau cuộc họp quan trọng của Xứ ủy Trung kỳ tại thành phố Vinh về, ông đã bị địch bắt tại làng Yên Dũng Hạ.
Cuối tháng 4-1931 bọn địch đã giải Nguyễn Đức Cảnh ra Hỏa Lò - Hà Nội, dùng mọi cách tra tấn dã man nhưng trước chí khí kiên cường của người cộng sản, bọn địch không lấy được một lời khai nào. Ngày 17-11-1931, ông bị Tòa án đại hình của địch kết án tử hình. Khi tuyên án, Chánh án phiên tòa Busê hỏi ông có xin Tổng thống Pháp ân xá không, Nguyễn Đức Cảnh đã trả lời: “Đánh đuổi quân cướp nước giành độc lập cho Tổ quốc, mưu cầu hạnh phúc cho nhân dân Việt Nam đâu phải có tội, đã không có tội, ta cần gì ân xá”. Những ngày cuối cùng trong xà lim án chém, ông đã viết tài liệu “Công nhân vận động” cùng nhiều tài liệu quan trọng khác. Đây là những đóng góp to lớn của Nguyễn Đức Cảnh vào kho tàng lý luận cách mạng của Đảng ta, góp phần lãnh đạo sự nghiệp cách mạng từng bước thắng lợi. Chiều ngày 30-7-1932, thực dân Pháp chuyển Nguyễn Đức Cảnh xuống Hải Phòng. Vào khoảng 5 giờ sáng ngày 31-7-1932, chúng đã xử chém Nguyễn Đức Cảnh tại Nhà lao sông Lấp, Hải Phòng (lúc đó ông mới 24 tuổi). Trước lúc đi xa, ông đã thổ lộ nỗi lòng mình để gửi về mẹ và quê hương qua bài thơ “Tạ từ ngôn” với những vần thơ đầy trăn trở : “…Một mình trằn trọc canh trường/ Nát lòng muôn việc giữa đường chưa xong/ Ngổn ngang trăm mối bên lòng/ Xông pha giông tố chi mong độ về/ Hồn còn mang nặng lời thề/ Nát thân chưa dễ đền nghì trời mây/ Tạ từ vĩnh quyết từ nay/Cúi xin từ mẫu chóng khuây nỗi buồn”.
80 năm kể từ ngày người chiến sĩ cộng sản trẻ tuổi - một trong những lãnh tụ xuất sắc của Đảng ta đi xa, đồng chí Nguyễn Đức Cảnh vẫn mãi là tấm gương sáng và cao đẹp về chủ nghĩa anh hùng cách mạng, về phẩm chất đạo đức trong sáng, cao cả của người cộng sản chân chính. Đồng chí đã trọn đời cống hiến, chiến đấu, hy sinh cho sự nghiệp cách mạng, vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân. Thương tiếc, cảm phục và biết ơn người chiến sĩ cách mạng đã hy sinh vì nghĩa lớn, ông Đặng Xuân Thiều đã có bài thơ “Khóc đồng chí Nguyễn Đức Cảnh” với những lời thơ còn đi mãi với thời gian: “Bóng dương qua lại tần ngần/ Xuân thu rầu rĩ thay làn cỏ xanh/ Đâu nắm đất vô danh tử sĩ/ Giọt mưa rơi rủ rỉ lá vàng/ “Đảng viên cộng sản Đông Dương/ Bỏ mình vì nghĩa giữa đường hôm qua”/ Sông núi hỡi vòng hoa thiên cổ/ Phủ cho người nấm mộ thời gian/ Nổi lên táp biển mưa ngàn/ Sóng gào gió thét xua tan thảm sầu”. Và sau này, cố nhạc sĩ Trần Hoàn cũng có ca khúc “Kể chuyện người cộng sản” viết về ông, với những giai điệu, lời ca sống cùng năm tháng :“…Người đồng chí hy sinh cả đời mình/ Từ trong lớp thợ thuyền đi theo Đảng, theo dân/…/ Đêm đêm lần đi về trong lòng người gieo hạt giống/ Ngùn ngụt cháy trong tim của người dân từ lâu oán thù chồng chất ngọn lửa hờn uất/ Cùng toàn dân đinh ninh một lời thề/ Vùng lên để diệt thù anh dẫn đầu tiên phong/ Giành cuộc sống trong tay lũ bạo cường về với lớp thợ thuyền, với dân cày bốn phương...”.

Bác Hồ của chúng ta không chỉ được biết đến là một nhà lãnh tụ của dân tộc Việt Nam mà Bác còn được biết đến như một thi nhân thi sĩ một danh nhân của thời đại. Bác đã để lại cho chúng ta một khối lượng tác phẩm đồ sộ và có tầm ảnh hưởng lớn đối với thời đại. Trong số đó có bài thơ “đêm nay Bác không ngủ”đã để lại trong lòng người đọc rất nhiều ấn tượng khó quên. Bài thơ được sáng tác khi Bác hồ trực tiếp ra chiến trận để chỉ huy cuộc chiếnđấu. Bài thơ đọng lại trong lòng người đọc về vị lãnh tụ của dân tộc.
Câu chuyện được diễn biến trong một đêm lạnh,và được bắt đầu khi anh độiviên chợt thức giấc và thấy Bác đang còn thức. Bác vẫn thức để chăm lo cho giấc giủ của những người chiến sĩ,bác đốt lửa để giữ ấm cho họ. Anh đội viên chứng kiến vô cùng xúc động và cảm phục trước tình yêu thương của Bác dành cho các chiến sĩ. Hình tượng Bác trong bài thơ này đều được nhìn nhận qua con mắt còn đnag mơ mồ không rõ thực hay ảo của anh đội viên. Hình tượng của Bác hiện lên vừa cao vời vợi vĩ đại mà cũng hết sức gần gũi sưởi ấm lòng anh hơn ngọn lửa hồng.
“ Anh đội viên thức dậy
Thấy trời khuya lắm rồi
Mà sao Bác vẫn ngồi
Đêm nay Bác không ngủ.
Lặng yên nhìn bếp lửa
Vẻ mặt Bác trầm ngâm.
Ngoài trời mưa lâm thâm
Mái lều tranh xơ xác”
Đây là lần đầu tiên anh đội viên thức giấc. Anh dã thức dậy sau một giấc ngủ dài,anh chợt nhìn thấy hình ảnh Bác vẫn còn ngồi đó vẫn trầm ngâm miệt mài suy nghĩ cho việc nước. Ngoài trời đã lạnh hơn rất nhiều nhưng bác vẫn không vào trong mà Bác vẫn ngồi đốt lửa cho các chiến sĩ bớt đi cái lạnh. Anh lặng lẽ đứng nhìn Bác lặng kẽ quan sát Bác từ nét mặt đến cử chỉ của Bác.
“Anh đội viên nhìn Bác
Càng nhìn lại càng thương
Người Cha mái tóc bạc
Đốt lửa cho anh nằm
Rồi Bác đi dém chăn
Từng người từng người một.
Sợ cháu mình giật thột
Bác nhón chân nhẹ nhàng”
Hình ảnh người cha già của dân tộc được hiện lên đầy xúc cảm khi Bác chăm sóc từng giấc ngủ của các chiến sĩ. Bác đi đắp lại chăn cho từng người từng người một rất ân cần mà cũng rất dịu dàng như một người mẹ mà cũng như một người cha đang chăm sóc từng giấc ngủ cho những đứa con của mình. Anh đội viên cũng lại thiếp đi vào trong giấc ngủ anh chỉ còn mơ màng thấy hình ảnh Bác cao lộng ấm áp ru anh chìn vào giấc ngủ. Từ Bác tỏa ra một hơi thở một sự ấm áp đến kì lạ ấm hơn cả ngọn lửa hồng. Và lần thứ ba anh thức dậy anh giật mình khi Bác vẫn chưa ngủ.
“Bác vẫn ngồi đinh ninh
Chòm râu im phăng phắc. ”
Tư thế ấy biểu lộ Bác đang tập trung suy nghĩ cao độ. Anh lo lắng vì sợ Bác mệt, không tiếp tục được cuộc hành trình. Sự lo lắng ở anh đã thành hốt hoảng thực sự và nếu lần trước anh chỉ dám thầm thì hỏi nhỏ thì lần này anh năn nỉ mạnh dạn hơn, tha thiết hơn:
“Anh vội vàng nằng nặc
Mời Bác ngủ Bác ơi
Trời sắp sáng mất rồi
Bác ơi! Mời Bác ngủ!”
Cảm động trước nhiệt tình của người chiến sĩ, Bác thấy cần phải giải thích nguyên nhân mình không ngủ để cho anh yên tâm:
“Bác thức thì mặc Bác
Bác ngủ không an lòng
Bác thương đoàn dân công
Đêm nay ngủ ngoài rừng
Rải lá cây làm chiếu
Manh áo phủ làm chăn.
Trời thì mưa lâm thâm
Làm sao cho khỏi ướt!
Càng thương càng nóng ruột
Mong trời sáng mau mau. ”
Nếu như ở đoạn thơ trên, nguyên nhân Bác không ngủ chỉ nằm trong những phán đoán của anh chiến sĩ thì đến đoạn này, Bác đã giải thích rõ ràng: Bác không ngủ vì Bác lo cho bộ đội, dân công đang ngủ ngoài rừng. Tuy không thấy tận mắt, nhưng Bác cảm nhận rất cụ thể những gian lao vất vả của họ. Câu trả lời của Bác đã khiến cho anh đội viên thêm hiểu và thấm thía tấm lòng nhân ái mênh mông của vị Cha già dân tộc. Bác lo cho bộ đội, dân công cũng chính là lo cho cuộc kháng chiến gian khổ nhưng anh dũng của dân tộc nhằm giành lại chủ quyền độc lập, tự do, cơm áo, hòa bình. Một nỗi xúc dộngđộtngột dâng trào trong anh chiến sĩ khi anh hiểu được tấm lòng của Bác,khi đó anh chiến sĩ vô cùng vui sướng. Anh muốn chia sẻ nỗi niềm cùng Bác và đã thức luôn cùng Bác. Hồ Chí Minh là một vị lãnh tụ vĩ đại một người cha hiền hậu,Bác không chỉ lo cho những việc lớn mà con nghĩ đến từng miếng ăn giấc ngủ của tất cả các chiến sĩ và còn của tất cả mọi người dân.
Ở đoạn kết tác giả viết
“Vì một lẽ thường tình
Bác là Hồ Chí Minh”
Lẽ thường tình ấy đơn giản dễ hiểu mà sâu sắc. Vì tên người là Hồ Chí Minh. Vì người từng ra trận từng đồng cam cộng khổ đối với các chiến sĩ dân công. Ba chữ “lẽ thường tình”hiện ra trong lòng người đọc bao nhiêu liên tưởng tốt đẹp về vị lãnh đạo kính yêu của dân tộc.
Bài thơ để lại rất nhiều ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc. Đó là hình ảnh một vị lãnh tụ hiện lên là một người cha già của cả dân tộc. Hình ảnh Bác không ngủ chăm sóc từng giấc ngủ của mỗi người chiến sĩ để lại trong chúng ta rất nhiều ấn tượng mới mẻ về Bác. Bài thơ cho chúng ta hiểu thêm về Bác hiểu thêm về một vị lãnh tụ của dân tộc Việt Nam
Minh Huệ với bài thơ Đêm nay Bác không ngủ là hiện tượng thi sĩ bất tử với một giai phẩm văn chương. Độc đáo bởi vì một nhà thơ xứ Nghệ, sử dụng làn điệu dân ca hát dặm Nghệ Tĩnh đã ca ngợi tình thương người mênh mông của một người con vĩ đại của xứ Nghệ - Bác Hồ kính yêu.
Bài thơ gần như một truyện cổ tích vừa thực vừa mộng dẫn hồn ta vào một không khí lung linh huyền thoại: một ông tiên với chòm râu im phăng phắc, bỗng cao lung linh trước ngọn lửa hồng chập chờn giữa rừng khuya. Một đêm đông lạnh lẽo mưa lâm thâm thời chiến tranh, loạn lạc. Xung quanh đống lửa là những chiến binh trẻ (tiên đồng) đang nằm ngủ. Không gian nghệ thuật và thời gian nghệ thuật ấy đá góp phần đặc sắc tạo nên sắc điệu ngữ trữ tình thẩm mĩ của bài thơ Đêm nay Bác không ngủ.
Tác giả đã sử dụng ngôn ngữ kể, ngôn ngữ tả, ngôn ngữ nhân vật, và bình luận trữ tình hoà quyện trong những vần thơ năm chữ dung dị, lắng đọng, liền mạch, mến thương.
:A

bài thơ:
Nhà em treo ảnh Bác Hồ
Bên trên là một lá cờ đỏ tươi
Ngày ngày Bác mỉm miệng cười
Bác nhìn chúng cháu vui chơi trong nhà
Ngoài sân có mấy con gà
Ngoài vườn có mấy quả na chín rồi
Em nghe như Bác dạy lời
Cháu ơi đừng có chơi bời đâu xa
Trồng rau, quét bếp, đuổi gà
Thấy tàu bay Mỹ nhớ ra hầm ngồi.
bài hát:
- "Ai yêu Bác Hồ Chí Minh hơn các em nhi đồng" (Phong Nhã)
- "Bác đang cùng chúng cháu hành quân" (Huy Thục)
- "Bác Hồ sống mãi với Tây Nguyên" (Lê Lôi)
- "Bác Hồ, một tình yêu bao la" của (Thuận Yến):...Bác thương các cụ già xuân về gửi biếu lụa, Bác yêu đàn cháu nhỏ Trung Thu gửi cho quà. Bác thương đoàn dân công đêm nay ngủ ngoài rừng, Bác thương người chiến sĩ đứng gác ngoài biên cương..."
- "Bác Hồ - Người cho em tất cả" (Hoàng Long, Hoàng Lân, thơ Phong Thu)
- "Bác Hồ trên đỉnh Trường Lệ" (Lê Đăng Khoa) [3]

Nhạc sĩ Văn Cao sinh ngày 15-11-1923 tại Thành phố Hải Phòng, nước Việt Nam. Ông sống và làm việc chủ yếu ở Thành phố Hà Nội, nước Việt Nam. Ông sinh thuộc cung Thần Nông, cầm tinh con (giáp) lợn (Quý Hợi 1923). Văn Cao xếp hạng nổi tiếng thứ 1794 trên thế giới và thứ 21 trong danh sách Nhạc sĩ nổi tiếng.Nhạc sĩ Văn Cao đã trở nên quen thuộc với người yêu nhạc Việt nam. Ông chính là tác giả của nhạc phẩm "Tiến quân ca" nổi tiếng. Ông là một nhạc sĩ nổi tiếng, đồng thời là nhà thơ, họa sĩ, nhạc sĩ có nhiều tác phẩm nghệ thuật mang giá trị cao.Nhạc sĩ Văn Cao trở thành một nhạc sĩ nổi bật của dòng nhạc kháng chiến với nhiều ca khúc đã quá phổ biến Nhạc sĩ Văn Cao Văn Cao hoc tiểu học ở trường Bonnal, học trung học tại trường Saint Josef.
Năm ông 15 tuổi, kinh tế gia đình sa sút nên ông phải nghỉ học khi kết thúc năm thứ hai bậc thành trung. Ông làm điện thoại viên ở sở Bưu điện tại Hải Phòng, nhưng được một tháng thì bỏ việc.
Trong một chuyến đi vào miền Nam năm 1940, khi ở Huế, Văn Cao đã viết bài thơ đầu tay "Một đêm đàn lạnh trên sông Huế".
Năm 1942, ông lên Hà Nội để theo học dự thính tại Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương.
Sau Cách mạng tháng Tám, nhạc sĩ Văn Cao về làm phóng viên cho báo Lao động.
Năm 1946, nhạc sĩ Văn Cao được được giao nhiệm vụ chở vũ khí và tiền vào mặt trận Nam Bộ. Sau đó, ông được mời tham gia Hội Văn hoá Cứu quốc và được bầu là Ủy viên Chấp hành, Văn Cao hoạt động ở liên khu III, phụ trách tổ điều tra của công an Liên khu và viết báo Độc Lập.
Cuối năm 1949, ông nghỉ việc ở báo Văn Nghệ và chuyển sang phụ trách Đoàn Nhạc sĩ Việt Nam.
Bài này ngắn hơn nè
Văn Cao (15 tháng 11 năm 1923 – 10 tháng 7 năm 1995) là một nhạc sĩ, họa sĩ, nhà thơ người Việt Nam. Ông là tác giả của Tiến quân ca - quốc ca của nước Việt Nam, đồng thời cũng là một trong những gương mặt quan trọng nhất của tân nhạc. Ông được giới chuyên môn và công chúng yêu nhạc đánh giá một cách rộng rãi là một trong ba nhạc sĩ nổi bật nhất của nền tân nhạc Việt Nam trong thế kỷ 20, cùng với Phạm Duy và Trịnh Công Sơn.
Thuộc thế hệ nhạc sĩ tiên phong, Văn Cao tham gia nhóm Đồng Vọng, sáng tác các ca khúc lãng mạn Bến xuân, Suối mơ, Thiên Thai, Trương Chi,... ghi dấu ấn trong lịch sử tân nhạc Việt Nam. Sau khi gia nhập Việt Minh, Văn Cao viết Tiến quân ca, Trường ca Sông Lô, nhạc kháng chiến. Năm 1996, một năm sau khi mất, Văn Cao được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh trong đợt trao giải đầu tiên. Ông cũng đã được Nhà nước Việt Nam trao tặng Huân chương Kháng chiến hạng nhất, Huân chương Độc lập hạng ba, Huân chương Độc lập hạng nhất, Huân chương Hồ Chí Minh. Tên ông cũng được đặt cho nhiều con phố đẹp ở Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Huế, Đà Nẵng, Nam Định,..

1.Nhạc sĩ Bùi Đình Thảo
2.Hoàng Lân-Hoàng Long
3.Nhạc:Lê Minh Châu-Lời:Minh Nguyên
4.Nhạc sĩ Hàn Ngọc Bích\
5.Hoàng Lân-Hoàng Long
6.Nhạc sĩ Phạm Tuyên
7.Nhạc sĩ Hoàng Hà
Những đóng góp trong âm nhạc và sáng tác