Bài học cùng chủ đề
- Tri thức Ngữ văn
- Đọc: Xuân Tóc Đỏ cứu quốc (Trích: Số đỏ – Vũ Trọng Phụng)
- Đọc: Nỗi buồn chiến tranh (Trích - Bảo Ninh)
- Thực hành tiếng Việt: Biện pháp tu từ nói mỉa, nghịch ngữ: đặc điểm và tác dụng
- Viết bài văn nghị luận so sánh, đánh giá hai tác phẩm truyện
- Thực hành đọc: Trên xuồng cứu nạn (Trích Cuộc đời của Pi - Y-an Ma-ten - Yann Martel)
- Phiếu bài tập cuối chủ đề 1
Báo cáo học liệu
Mua học liệu
Mua học liệu:
-
Số dư ví của bạn: 0 coin - 0 Xu
-
Nếu mua học liệu này bạn sẽ bị trừ: 2 coin\Xu
Để nhận Coin\Xu, bạn có thể:

Phiếu bài tập cuối chủ đề 1 SVIP
Yêu cầu đăng nhập!
Bạn chưa đăng nhập. Hãy đăng nhập để làm bài thi tại đây!
Đọc văn bản và trả lời câu hỏi.
(Tóm tắt: Fantine là một cô gái trẻ, bị lừa tình bởi một sinh viên giàu có và không may có thai. Sau khi bị bỏ rơi, cô buộc phải chăm sóc cho đứa con gái bé bỏng một mình, Cosette. Khi Cosette được khoảng ba tuổi, cô đã gửi con cho gia đình Thénardier, chủ một quán trọ, để nhờ họ thay cô chăm sóc con trong lúc cô đi làm. Hằng tháng, Fantine phải làm việc để gửi tiền trợ cấp cho gia đình họ. Thế nhưng, cô không biết rằng, gia đình họ đã ngược đãi Cosette, bắt cô bé phải làm nô lệ cho quán trọ của họ. Cô cũng không biết rằng những lá thư họ gửi cho cô để yêu cầu gửi tiền trợ cấp cho Cosette thực chất là cách gian lận của họ để moi tiền của Fantine. Không lâu sau đó, Fantine bị đuổi việc khỏi xưởng. Thế nhưng, những bức thư của gia đình Thénardier vẫn không ngừng thúc giục cô gửi tiền để mua váy len cho Cosette. Hết cách, cô đành bán đi mái tóc của mình để mua váy len cho con bớt lạnh trong mùa đông.)
Fantine vẫn yêu quý đứa con hết sức. Chị càng sa đoạ, cuộc đời chị càng đen tối, thì hình ảnh đứa con thơ ngây yêu dấu lại càng sáng chói trong tâm hồn chị. Chị tự bảo: “Bao giờ ta giàu, thì ta sẽ đón Cosette của ta về với ta.”, và chị cười sung sướng. Chứng ho cũ của chị vẫn không khỏi, lưng lại thường toát mồ hôi lạnh. Một hôm, chị nhận được một bức thư của vợ chồng Thénardier như sau: “Cosette mắc một chứng bệnh đang phát triển ở địa phương, người ta gọi là bệnh sốt ban. Cần nhiều thứ thuốc đắt tiền để chữa, chúng tôi chạy chữa đến sạt nghiệp, bây giờ thì chúng tôi không còn tiền nữa. Trong vòng tám ngày, nếu chị không gửi cho bốn mươi francs thì coi như con bé đi đứt.”. Fantine cười rộ lên như điên và nói với bà láng giềng:
− A, họ quý hoá thật! Bốn mươi francs, có thế thôi! Nghĩa là hai đồng vàng! Đào đâu ra? Họ thật ngớ ngẩn, những người nhà quê ấy họ ngớ ngẩn thật!
Nhưng rồi chị lại đi ra phía cầu thang, ghé cửa sổ đọc lại bức thư. Và chị xuống thang gác, chạy ra phố, vừa chạy vừa nhảy vừa cười khanh khách.
Có người gặp chị hỏi:
− Có gì mà chị vui sướng thế hở?
Chị trả lời:
− Ở nhà quê họ vừa viết thư cho tôi. Thật là ngu ngốc. Họ đòi tôi gửi bốn mươi francs. Nhà quê thật!
Khi đi qua quảng trường, chị thấy có đám đông xúm quanh một chiếc xe kiểu rất lạ. Trên sàn xe có một người đàn ông mặc áo đỏ đang nói huyên thuyên. Đó là một anh chàng nhổ răng dạo, đang giới thiệu với mọi người những hàm răng giả trọn vẹn, những ống thuốc đánh răng, những “nha thống thuỷ”, “nha thống tán”. Fantine len vào đám đông và cũng cười như mọi người. Bài diễn thuyết của tên nhổ răng dạo đầy những tiếng lóng dành cho bọn vô lại và những chữ khó hiểu để cho khách tử tế.
Thấy Fantine cười, hắn bỗng kêu lên:
− Cái chị đang cười kia, răng chị đẹp quá! Nếu chị bán cho tôi hai cái bàn cuốc của chị thì tôi trả cho chị mỗi cái một đồng vàng.
Fantine hỏi:
− Hai cái bàn cuốc của tôi là cái gì?
− Hai cái bàn cuốc là hai cái răng cửa hàm trên ấy − anh nhổ răng nói.
Fantine kêu:
− Nói gì mà nghe ghê rợn thế!
Một mụ già móm đứng cạnh nói lẩm bẩm:
− Hai đồng vàng cơ à! Thật là sướng nhé!
Fantine bịt tai chạy trốn để khỏi nghe giọng nói khàn khàn của anh chàng ấy đuổi theo:
− Nghĩ kỹ đi chị ơi! Hai đồng vàng được khối việc đấy. Nếu vừa ý, tối nay đến tìm tôi ở quán Tillac nhớ.
Fantine về đến nhà, còn lẩm bẩm tức giận. Chị kể chuyện lại cho bà Marguerite:
− Bà thử nghĩ xem có nghe được không? Sao lại có thằng cha đáng ghét thế! Sao người ta lại để cho những đứa như vậy đi dạo khắp nơi? Bẻ hai cái răng cửa của tôi à? Thế rồi mặt mũi của tôi sẽ ghê gớm như thế nào? Tóc còn mọc lại chứ răng thì bao giờ! Gớm cái đồ yêu quái! Thà tôi đâm đầu từ tầng gác thứ năm xuống vỉa hè còn hơn. Hắn bảo tôi là tối nay hắn ở quán Tillac.
Bà Marguerite hỏi:
− Thế hắn trả bao nhiêu?
− Hai đồng vàng.
− Thế là bốn mươi francs.
− Vâng, thế là bốn mươi francs − Fantine nhắc lại.
Chị yên lặng, trầm ngâm rồi giở việc ra làm. Mười lăm phút sau, chị bỏ đồ khâu đấy và chạy ra cầu thang đọc lại cái thư Thénardier. Khi trở vào, chị hỏi bà Marguerite ngồi khâu bên cạnh:
− Bà nhỉ, sốt phát ban là gì nhỉ, bà có biết không?
− Có, đó là một thứ bệnh.
− Chữa bệnh này cần nhiều thuốc lắm phải không?
− Ồ, những thứ thuốc ghê gớm lắm! [...]
− Trẻ con hay mắc, phải không?
− Nhất là trẻ con, dễ mắc lắm.
− Có chết được không hở bà?
− Chết lắm chứ lị.
Fantine lại đi ra để đọc bức thư một lần nữa ở cầu thang. Đến tối, nàng ra phố và người ta thấy nàng đi về phía phố Paris là phố các quán cơm. Hôm sau, trời chưa sáng, khi bà Marguerite sang phòng Fantine để cũng ngồi khâu chung một ngọn nến thì bà ta thấy Fantine ngồi trên giường, mặt tái nhợt, lạnh lẽo, ghê rợn. Nàng không ngủ. Chiếc mũ chụp rơi xuống đầu gối, ngọn nến cháy cả đêm sắp tàn. Trước cảnh tượng bất thường ấy, bà Marguerite kinh ngạc đứng sững ở ngưỡng cửa như một pho tượng gỗ. Bà kêu:
− Lạy Chúa! Cây nến cháy hết cả như thế kia! Có tai biến gì xảy ra, hở chị Fantine?
Rồi bà nhìn Fantine đang quay cái đầu trọc lốc về phía bà. Mới một hôm mà Fantine đã già đi đến mười tuổi.
− Lạy Chúa! Chị Fantine, chị làm sao vậy?
− Có gì đâu. Tôi vui thì có. Con tôi sẽ không chết về cái bệnh ác nghiệt ấy vì có thuốc rồi. Tôi rất hài lòng.
Fantine nói thế và chỉ cho bà Marguerite hai đồng tiền vàng chói ngời trên mặt bàn.
− Ôi Chúa ơi! Cả một cái gia sản như thế! Chị làm gì mà có được những đồng tiền vàng ấy?
− Có đấy ạ?
Fantine trả lời thế thôi và cười. Ngọn nến chiếu rõ mặt chị. Nụ cười rớm máu. Một ít nước dãi đỏ dính ở hai mép và ở miệng chị có một lỗ hổng đen! Hai cái răng đã bẻ đi rồi.
Fantine gửi bốn mươi francs ấy cho Thénardier. Thật ra thì vợ chồng Thénardier đã đánh lừa nàng để lấy tiền, Cosette không ốm.
(Những người khốn khổ, Victor Hugo)
* Chú thích: Những người khốn khổ (Tiếng Pháp: Les Misérables) là tiểu thuyết của văn hào Pháp Victor Hugo, được xuất bản năm 1862. Tác phẩm được đánh giá là một trong những tiểu thuyết nổi tiếng nhất của nền văn học thế giới thế kỷ 19. Tác phẩm viết về xã hội nước Pháp trong khoảng hơn 20 năm đầu thế kỷ 19 kể từ thời điểm Napoléon I lên ngôi và vài thập niên sau đó. Nhân vật chính của tiểu thuyết là Jean Valjean, một cựu tù khổ sai tìm cách chuộc lại những lỗi lầm đã gây ra thời trai trẻ. Bộ tiểu thuyết không chỉ nói tới bản chất của cái tốt, cái xấu của luật pháp, mà tác phẩm còn là cuốn bách khoa thư đồ sộ về lịch sử, kiến trúc của Paris, nền chính trị, triết lý, luật pháp, công lý, tín ngưỡng của nước Pháp nửa đầu thế kỷ 19.
Trong những nhận định sau, nhận định nào đúng, nhận định nào sai khi nói về tác phẩm Những người khốn khổ?
(Nhấp vào ô màu vàng để chọn đúng / sai)a) Được sáng tác theo thể loại tiểu thuyết. |
|
b) Được sáng tác bởi Victor Harbor. |
|
c) Được xuất bản vào năm 1862. |
|
d) Được sáng tác theo thể loại trường ca. |
|
Bối cảnh xã hội nào dưới đây được tái hiện trong tác phẩm Những người khốn khổ?
Nhân vật chính trong tiểu thuyết Những người khốn khổ là ai?
Phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong đoạn trích trên là gì?
Nhân vật chính được tập trung khắc hoạ trong đoạn trích trên là ai?
Xác định ngôi kể được sử dụng trong văn bản.
Sự kiện nào dưới đây đã khiến Fantine quyết định bán đi mái tóc của mình?
Sau khi trò chuyện người nhổ răng dạo ở quảng trường, Fantine đã có thái độ như thế nào?
Người nhổ răng dạo đã đề nghị trả cho Fantine bao nhiêu tiền nếu cô bán cho hắn hai chiếc răng cửa?
Điền vào chỗ trống.
Sau khi biết được giá của hai chiếc răng cửa có thể giúp mình giải quyết khó khăn trước mắt, Fantine đã đọc lại bức thư của nhà Thénardier rồi hỏi bà Marguerite về bệnh . Điều này cho thấy, Fantine đang về việc bán răng của mình và cô muốn xác nhận nghiêm trọng của căn bệnh mà con gái cô đang mắc phải để đưa ra quyết định. Cuối cùng, Fantine vẫn quyết định bán đi hai chiếc răng cửa để lấy tiền chữa bệnh cho con.
Chi tiết "Ngọn nến chiếu rõ mặt chị. Nụ cười rớm máu. Một ít nước dãi đỏ dính ở hai mép và ở miệng chị có một lỗ hổng đen! Hai cái răng đã bẻ đi rồi." thể hiện điều gì?
Chọn những phẩm chất của Fantine được thể hiện trong đoạn trích trên.
Mục đích của gia đình Thénardier khi liên tục viết thư cho Fantine là gì?
Qua đoạn trích trên, gia đình Thénardier hiện lên với những nét tính cách nào dưới đây?
Câu văn dưới đây thể hiện điểm nhìn của nhân vật nào?
Chị càng sa đoạ, cuộc đời chị càng đen tối, thì hình ảnh đứa con thơ ngây yêu dấu lại càng sáng chói trong tâm hồn chị.
Chỉ ra tác dụng của điểm nhìn trong câu văn dưới đây.
Chị càng sa đoạ, cuộc đời chị càng đen tối, thì hình ảnh đứa con thơ ngây yêu dấu lại càng sáng chói trong tâm hồn chị.
Câu văn dưới đây thể hiện điểm nhìn của nhân vật nào?
Khi đi qua quảng trường, chị thấy có đám đông xúm quanh một chiếc xe kiểu rất lạ.
Xác định đề tài được thể hiện qua đoạn trích trên.
Chủ đề của đoạn trích trên là gì?
Nội dung của văn bản này là gì?
Qua đoạn trích, Victor Hugo không chỉ khắc hoạ một cách chân thực và sâu sắc bi kịch cuộc đời của nghèo khổ trong xã hội tư bản Pháp nửa đầu thế kỷ mà còn ca ngợi vẻ đẹp thiêng liêng, bất diệt của qua hình tượng nhân vật Fantine. Từ đó, ông lên án sâu sắc những , sự tàn nhẫn và bóc lột của xã hội tư bản đương thời, đồng thời bày tỏ sự với số phận của những con người nhỏ bé, nghèo khổ, đáng thương trong xã hội ấy.
Điền vào chỗ trống.
Nói mỉa (còn gọi là biếm dụ) là biện pháp tu từ, theo đó, người nói/ người viết dùng những từ ngữ có ý nghĩa với ngụ ý đánh giá nhằm hoặc đả kích đối tượng được nói đến. Như vậy, nói mỉa có cấu tạo gồm tầng nghĩa: Ý nghĩa của từ ngữ (nghĩa tường minh) và ý nghĩa của ngươi nói/ người viết (nghĩa hàm ẩn).
(Kéo thả hoặc click vào để điền)
Điền vào chỗ trống.
Nghịch ngữ là biện pháp tu từ, theo đó, người nói/ người viết sử dụng trong cùng một câu hoặc một đoạn văn những từ ngữ hoặc câu có nghĩa nhau nhằm tạo ra cách nói mới mẻ, để thể hiện thông điệp, nhận xét về đối tượng được nói đến. Theo cách hiểu hẹp, nghịch ngữ bao gồm những kết hợp từ , tạo ra bằng cách sử dụng các từ ngữ thể hiện những đặc điểm trái ngược nhau. Theo cách hiểu rộng, nghịch ngữ còn bao gồm những tương phản, được tạo ra bằng cách sử dụng các từ ngữ hoặc , vế câu thể hiện những đặc điểm trái ngược nhau của cùng một đối tượng hoặc các đối tượng khác nhau.
(Kéo thả hoặc click vào để điền)
Chọn câu nói sử dụng biện pháp tu từ nói mỉa.
Chọn những cụm từ sử dụng biện pháp tu từ nghịch ngữ. (Chọn 2 đáp án)
Phân tích tác dụng của biện pháp tu từ nói mỉa trong trường hợp sau đây.
Chồng người vác giáo săn beo
Chồng em vác đũa săn mèo khắp mâm.
(Ca dao)
Phân tích tác dụng của biện pháp tu từ nói mỉa trong trường hợp sau đây.
Làm trai cho đáng nên trai,
Khom lưng chống gối gánh hai hạt vừng.
(Ca dao)
Bấm chọn những từ ngữ thể hiện biện pháp tu từ nghịch ngữ trong đoạn văn dưới đây.
Người ta đã nghĩ đến cả thuốc thánh đền Bia vừa mới chữa một người ho lao và một người cảm thương hàn bằng bùn đen và cứt trâu, công hiệu đến nỗi họ mất mạng, và quan trên lại điều tra rằng có một tụi cường hào tổ chức ra thánh, mà tụi cường hào ấy lại ăn cắp tiền quỹ nữa, nên tự nhiên cũng hết thiêng liêng... Những việc trắc trở như thế đã làm cho ông già hơn tám mươi tuổi phải chết một cách bình tĩnh.
(Số đỏ, Vũ Trọng Phụng)
Phân tích biện pháp tu từ nghịch ngữ trong đoạn văn dưới đây.
Phải viết thôi! Viết để quên đi, viết để nhớ lại. [...] Cần phải viết về những người thân yêu cũng như về những con người xa lạ hằng ngày nườm nượp qua đường vô tình trở thành những chứng nhân của cuộc đời nhau.
(Nỗi buồn chiến tranh, Bảo Ninh)
– Biện pháp tu từ nghịch ngữ trong trường hợp này được thể hiện qua các từ ngữ như: "Viết để quên đi", , "xa lạ", .
– Tác dụng: Các nghịch ngữ trên biểu đạt giá trị to lớn của việc . Bởi đối với nhân vật Kiên, đó là cách duy nhất để anh có thể sống lại một cách đủ đầy những trải nghiệm quý giá của cuộc đời.
Trong những nhận định sau, nhận định nào đúng, nhận định nào sai khi nói về yêu cầu của bài văn nghị luận so sánh, đánh giá hai tác phẩm truyện?
(Nhấp vào ô màu vàng để chọn đúng / sai)a) Nêu được triết lí nhân sinh của việc đánh giá hai tác phẩm truyện thông qua việc so sánh. |
|
b) Trình bày được các thông tin khái quát về hai tác phẩm truyện. |
|
c) Tập trung làm rõ điểm giống nhau của hai tác phẩm một cách khái quát. |
|
d) Nêu được mục đích và cơ sở của việc so sánh, đánh giá hai tác phẩm truyện. |
|
Điền từ ngữ thích hợp vào chỗ trống để hoàn thiện dàn ý cho bài văn nghị luận so sánh, đánh giá hai tác phẩm truyện.
− Mở bài: Giới thiệu hai tác phẩm truyện được xác định là đối tượng của sự so sánh, đánh giá; nêu và cơ sở của việc so sánh, đánh giá này.
− Thân bài: Cần triển khai các ý:
+ Thông tin chung về từng tác phẩm: Hoàn cảnh ra đời, , chủ đề, cốt truyện, nhân vật, vị trí của tác phẩm trong đời sống văn học,...
+ Những điểm tương đồng giữa hai tác phẩm truyện và dẫn đến sự tương đồng ấy.
+ Những điểm khác biệt giữa hai tác phẩm truyện và nguyên nhân dẫn đến sự khác biệt ấy.
+ Đánh giá chung về sự tương đồng, khác biệt giữa hai tác phẩm truyện và khẳng định độc đáo của mỗi tác phẩm.
− Kết bài: Nêu ý nghĩa của việc đánh giá các tác phẩm truyện khi đặt chúng trong tương quan so sánh.