K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

11 tháng 10 2017

- Từ nách được Nguyễn Du sử dụng để chỉ chỗ tiếp giáp giữa hai bức tường xây chắn chung quanh nhà (góc tường).

- Tác giả đã chuyển nghĩa từ nách từ việc chỉ một bộ phận trên cơ thể con người sang chỉ một góc tường, đó là hình ảnh ẩn dụ. Nếu thay từ nách tường bằng góc tường thì giá trị của câu thơ sẽ giảm đi rất nhiều.

26 tháng 6 2017

- Trong câu thơ: Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại thì hai từ xuân vừa chỉ mùa xuân, vừa chỉ tuổi xuân, sức sống của con người và nhu cầu tình cảm của tuổi trẻ.

- Trong câu thơ: Cành xuân đã bẻ cho người chuyên tay, từ xuân trong từ cành xuân chỉ vẻ đẹp của người con gái vẫn đang trong tuổi xuân thì.

- Từ xuân trong câu thơ Chén quỳnh tương ăm ắp bầu xuân của Nguyễn Khuyến chỉ chất men say nồng của rượu ngon, đồng thời nghĩa bóng chỉ sức sống dạt dào, tình cảm bạn bè thắm thiết.

- Trong hai câu thơ của Hồ Chí Minh: Từ xuân thứ nhất có nghĩa gốc chỉ mùa xuân. Từ xuân trong câu thứ hai chuyển nghĩa chỉ sức sống mới, tươi đẹp.

13 tháng 4 2023

Bài thơ thấy rõ nhất điều gì ở nhân vật trữ tình?

3 tháng 3 2019

- Đầu trâu mặt ngựa: biểu hiện tính hung hãn, dã man của bọn nha lại trong hoàn cảnh gia đình Kiều bị oan

- Chim lồng cá chậu: cảnh sống tù túng, chật hẹp, mất tự do, vẻ ngoài cuộc sống tỏ ra hào nhoáng, hoa mĩ

- Đội trời đạp đất: biểu hiện lối sống và hành động tự do, không chịu sự bó buộc, khuất phục trước uy quyền

Đọc văn bản và thực hiện yêu cầu từ 1 đến 5. TRÀNG GIANG − DÒNG SÔNG CỦA NỖI NIỀM NHÂN THẾ      (1) Là một người thuộc lớp Tây học, nhưng tâm hồn tác giả Lửa thiêng lại thấm đẫm Đường thi. Nên không gian Tràng giang cứ lãng đãng thơ Đường. Thơ cổ Trung Hoa thật tinh diệu trong việc diễn tả các trạng thái "tĩnh" của thế giới. Có lẽ vì triết học nơi đây đã quan niệm "tĩnh"...
Đọc tiếp

Đọc văn bản và thực hiện yêu cầu từ 1 đến 5. 

TRÀNG GIANG − DÒNG SÔNG CỦA NỖI NIỀM NHÂN THẾ

      (1) Là một người thuộc lớp Tây học, nhưng tâm hồn tác giả Lửa thiêng lại thấm đẫm Đường thi. Nên không gian Tràng giang cứ lãng đãng thơ Đường. Thơ cổ Trung Hoa thật tinh diệu trong việc diễn tả các trạng thái "tĩnh" của thế giới. Có lẽ vì triết học nơi đây đã quan niệm "tĩnh" là gốc của "động", "tĩnh" là cội nguồn của thế giới. Cùng với nó, "tĩnh tại" và "thanh vắng" cũng trở thành tiêu chuẩn mĩ học phổ biến của cái đẹp trong thiên nhiên và nghệ thuật về thiên nhiên. Tái tạo cái "tĩnh vắng mênh mông" trong nghệ thuật được xem là tái tạo hư không − một hư không chứa đầy âm nhạc, chứ không phải hư không trống rỗng. Huy Cận cũng tái tạo như thế, nhưng thi sĩ muốn đi xa hơn. Cái thanh vắng của thơ xưa được cảm nhận bằng sự an nhiên tự tại. Còn sự trống vắng của Tràng giang được cảm nhận bằng nỗi cô đơn, bơ vơ. Có lẽ vì thế mà Tràng giang còn là một thế giới quạnh hiu, cơ hồ tuyệt đối hoang vắng. Đối diện với không gian vô biên, trống trải, cái tôi ấy đi tìm kiếm sự cảm thông. Nhưng con người hoàn toàn vắng bóng. [...]

     Và sự phủ định cuối cùng "không khói hoàng hôn..". Vậy là ở đây không còn là cái thanh vắng cổ điển của "Đêm thanh hớp nguyệt nghiêng chén. Ngày vắng xem hoa bợ cây" (Nguyễn Trãi), "Lác đác bên sông chợ mấy nhà" (Bà huyện Thanh Quan), hay "Ngõ trúc quanh co khách vắng teo" (Nguyễn Khuyến) nữa. Tràng giang hiện ra như một thế giới hoang sơ. Có lẽ từ thuở khai thiên lập địa đến giờ vẫn thế! Thi sĩ như một kẻ lữ thứ lạc vào giữa một hoang đảo. Trơ trọi cô đơn đến tuyệt đối. Và nỗi nhớ nhà dâng lên như một tiếng gọi tự nhiên. Đứng trước cảnh thế này, hơn nghìn năm trước, Thôi Hiệu cũng chạnh lòng nhớ quê:

Nhật mộ hương quan hà xứ thị?
Yên ba giang thượng sử nhân sầu.
(Quê hương khuất bóng hoàng hôn,
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai?)

     Có lẽ đó chỉ là nỗi hoài hương của lòng sầu xứ. Và nó cần có khói sóng để làm duyên cớ. Nỗi nhớ của Huy Cận là thường trực, có cần đến thứ khói nào để làm duyên cớ đâu! Nhớ nhà như là để vượt thoát, để trốn chạy khỏi nỗi cô đơn cố hữu mà thôi:

Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.

      Dòng sông chảy mênh mang giữa trời đất đến đây như bỗng dội lên những tiếng sóng khác: tiếng sóng của lòng quê! Hay chính lòng quê cũng đang xao xuyến dâng lên để thành một dòng tràng giang của tâm hồn mà nhập vào tràng giang của trời đất?

     (2) Đứng trước dòng sông lớn, ta có cảm tưởng như đang đối diện với sự trường tồn, trường cửu. Nghìn năm trước khi chưa có ta nó vẫn chảy thế này. Nghìn năm sau, khi ta đã tan biến khỏi mặt đất này, nó vẫn chảy thế kia. Tràng giang vẫn điềm nhiên, dửng dưng không thèm biết đến sự có mặt của con người. Sự lặng lẽ của tràng giang là miên viễn và hình như trong bài thơ, Huy Cận đã thâu tóm được nhịp chảy trôi miên viễn ấy rồi thể hiện một cách tinh vi trong âm hưởng chảy trôi thao thiết của ngôn từ. Những từ láy nằm rải trong chiều dài bài thơ, nhất là láy nguyên: điệp điệp, song song, lớp lớp, dợn dợn... không chỉ gợi được sự đường bệ, mà còn gợi được nhịp triền miên. Những cặp câu tương xứng như trùng lặp, nối tiếp, đuổi nhau không ngừng nghỉ: "Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp/ Con thuyền xuôi mái nước song song". Các vế câu vừa cắt rời, vừa kết nối lên tiếp như một chuỗi dài tạo ra nhịp chảy trôi, rong ruổi, miên man: "Nắng xuống/ trời lên/ sâu chót vót. Sông dài/ trời rộng/ bến cô liêu". Rồi những từ, cụm từ chỉ sự trùng điệp, nối tiếp ở cuối các câu: "hàng nối hàng", "Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng",... tất cả những yếu tố ngôn từ ấy như những bè khác nhau, kết lại với nhau, phụ họa lẫn nhau, tạo thành một âm hưởng trôi xuôi vô tận miên viễn cứ ngầm chảy trong lòng bài thơ này khiến cho ta có một cảm tưởng thật rõ rệt: có một dòng tràng giang thầm chảy trong âm điệu. Và ta như nghe thấy dòng tràng giang không chỉ chảy trong không gian, mà còn chảy trong thời gian từ thuở khai thiên lập địa, chảy miết qua các thời đại mà về đây! Phải chăng đây là chiều thứ tư đầy mơ hồ và hư ảo của không gian Tràng giang?

     (3) Tôi đọc bài thơ bao nhiêu lần và không sao xóa được khỏi lòng mình cái cảm giác bâng quơ này: mình là cái cành củi khô luân lạc trên dòng Tràng giang kia hay mình là cánh chim nhỏ lạc lõng dưới lớp lớp mây cao đùn núi bạc đó?... Nó là cảm tưởng của một đứa trẻ? Mà dường như cũng là của một người già? Bởi vì tràng giang là dòng sông mà cũng là dòng đời chăng?

(Theo Thơ Huy Cận − Tác phẩm và lời bình, NXB Văn học, Hà Nội, 2007, tr. 356 − 361)

Câu 1. Xác định phương thức biểu đạt chính của văn bản. 

Câu 2.  Trong phần (3), người viết đã thể hiện cảm xúc, thái độ gì?

Câu 3. Trong phần (1) của văn bản, tác giả đã chỉ ra nét khác biệt nào của Tràng giang so với thơ xưa khi cùng tái tạo cái "tĩnh vắng mênh mông"?

Câu 4. Trong phần (2) của văn bản, tác giả đã phân tích những yếu tố ngôn ngữ nào của bài thơ để làm sáng tỏ "nhịp chảy trôi miên viễn" của tràng giang?

Câu 5. Em ấn tượng nhất với đặc điểm nào của bài thơ Tràng giang được phân tích trong văn bản? Vì sao?

0
18 tháng 9 2017

a. Hai câu thơ của Huy Cận: Trong hai câu thơ này, từ mặt trời được dùng với nghĩa gốc chỉ một thiên thể trong vũ trụ. Nhưng tác giả đã kết hợp sử dụng với biện pháp nhân hóa làm cho hình ảnh mặt trời trở nên gần gũi, sinh động.

b. Ở hai câu thơ của Tố Hữu: Từ mặt trời đã được chuyển nghĩa thành chân lí, lí tưởng cách mạng.

c. Hai câu thơ của Nguyễn Khoa Điềm:

- Từ mặt trời trong câu thơ đầu của Nguyễn Khoa Điềm dùng để chỉ mặt trời theo nghĩa gốc.

- Từ mặt trời trong câu thứ hai dùng với nghĩa ẩn dụ, chỉ đứa con trên lưng mẹ. Đứa con là mặt trời, là niềm hạnh phúc, niềm tin và là ánh sáng của đời mẹ.

10 tháng 3 2017

- Từ “thôi” vốn có nghĩa là chấm dứt, kết thúc một hoạt động nào đó

- Từ “thôi” in đậm được Nguyễn Khuyến sử dụng để chỉ sự chấm dứt, kết thúc một cuộc đời

⇒ Đây chính là sự sáng tạo nghĩa mới cho từ “thôi” của Nguyễn Khuyến để làm giảm bớt đi sự đau lòng, xót xa khi mất đi một người bạn tri kỉ là Dương Khuê.

QT
Quoc Tran Anh Le
Giáo viên
30 tháng 1 2024

- Ý nghĩa của đề tài với ngành du lịch:

+ Ý nghĩa thiết thưc, quan trọng đối với việc khai thác, phát triển ngành du lịch

+ Góp phần khẳng định giá trị, thế mạnh của ngành du lịch

+ Góp phần làm rõ định hướng phát triển bền vững các kì quan thên nhiên trong quá trình khai thác và bảo tồn.

- Suy nghĩ của bản thân:

+ Khai thác có kế hoạch cụ thể, chiến lược rõ ràng.

+ Khai thác đi đôi với bảo vệ, giữ gìn.

+ Hạn chế khai thác, tăng cường bảo vệ.

 Nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Phan đã nhận xét xác đáng trong Tục ngữ, ca dao, Dân ca Việt Nam: ''Trong ca dao dân ca Việt Nam có rất nhiều bài nói tới con cò. Những câu ca dao hay của ta và có lẽ cũng rất cổ của ta hầu hết mở đầu bằng con cò: 'con cò bay lả bay la, con cò bay bổng bay cao, con cò lặn lội, con cò trắng bạch như vôi, con cò vàng, con cò kỳ, con cò quăm...' tại sao trong khi hát, người ta...
Đọc tiếp

 Nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Phan đã nhận xét xác đáng trong Tục ngữ, ca dao, Dân ca Việt Nam: ''Trong ca dao dân ca Việt Nam có rất nhiều bài nói tới con cò. Những câu ca dao hay của ta và có lẽ cũng rất cổ của ta hầu hết mở đầu bằng con cò: 'con cò bay lả bay la, con cò bay bổng bay cao, con cò lặn lội, con cò trắng bạch như vôi, con cò vàng, con cò kỳ, con cò quăm...' tại sao trong khi hát, người ta lại hay nói nhiều tới loại chim ấy mà không nói tới loại chim khác? Trong các loài chim kiếm ăn ở đông ruộng chỉ có con cò thường gần người nông dân hơn cả''.( đoạn 1)

Tác giả nhà văn hiện đại biện minh cho nhận xét của mình rằng con trâu là bạn thân của dân quê nhưng dù sao hình ảnh con trâu vẵn gắn liền với thực tế nặng nề, khó nhọc nên lúc có nhu cầu thư giãn, bay bổng, người ta luôn nghĩ tới con cò.(đoạn 2)

Còn một lý do khác mà Vũ Ngọc Phan không nói tới, đó là con cò gắn liền với người mẹ quê.Chính lời ru đã nhập tâm vào mỗi chúng ta bóng dáng mẹ hiền qua hình ảnh con cò ...''(đoạn 3)

Đọc văn bản trên và trả lời câu hỏi :

1) cho biết nội dung chính của đoạn văn trên

2) Nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Phan đã cho biết những lí do nào mà hình ảnh con cò gắn bó nhiều với ca dao dân ca Việt Nam

3) Ở đoạn (1), tác giả đã sử dụng các biện pháp nghệ thuật nào? Nó có tác dụng gì?

4) Ở đoạn (2), tác giả đã sử dụng thao tác lập luận gì? Nó có ý nghĩa như thế nào?

5)chép 4 bài ca dao có hình ảnh con cò

 ai có lòng tốt giúp mình đi

 
5
26 tháng 9 2016

Nội dung chính: Đoạn 1: Nói về hình ảnh thông qua con cò, và các loài chim để thể hiện phẩm chất con người.

Đoạn 2: Nói về con trâu hình ảnh thân thuộc với con người Việt

Đoạn 3: Lời ru của người mẹ, hình ảnh quê mẹ

Tất cả 3 đoạn đề hướng tới 1 ý chính đó là hình ảnh thể hiện qua các câu ca dao, tục ngữ thông qua hình ảnh đó ta thấy được nét đẹp bên trong từng câu nói.

 

 

26 tháng 9 2016

khocroi