K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

19 tháng 8 2017

- Những đức tính cao đẹp của “người đồng mình” là:

      + Dễ thương, giàu tình cảm.

      + Thủy chung, gắn bó với quê hương.

      + Hồn nhiên, mạnh mẽ.

      + Bản lĩnh, bền bỉ

      + Mộc mạc, chân chất mà to lớn, kiêu hãnh.

   - Cảm nhận về 4 câu cuối bài thơ:

      + Lời nói của cha đầy trìu mến và tin tưởng, thôi thúc con đi trên đường đời.

      + Tuy thô sơ da thịt nhưng không nhỏ bé, “Nghe con” nghe sao trìu mến thân thương. Lời cha thốt lên tự đáy lòng: dù ở bất cứ đâu vẫn không quên nguồn cội, luôn tự hào về truyền thống tốt đẹp, gắn bó với mảnh đất quê hương mình. Đó là nơi mang đậm những đức tính quý báu và tâm hồn cao đẹp. Mong con vượt lên khó khăn, tiếp nối truyền thống để sống có nghĩa, có tình.

1.Mượn lời nói với con, nhà thơ nói về cội nguồn sinh dưỡng của mỗi con người, gợi về sức sống mạnh mẽ, bền bỉ của quê hương mình.Bố cục của bài thơ đã thể hiện ý tưởng đó như thế nào? 2.Con được lớn lên trong tình yêu thương của cha mẹ, trong sự đùm bọc của quê hương. Hãy tìm và phân tích các câu thơ nói lên điều ấy. 3.Người cha nói với con về những đức tính cao...
Đọc tiếp

1.Mượn lời nói với con, nhà thơ nói về cội nguồn sinh dưỡng của mỗi con người, gợi về sức sống mạnh mẽ, bền bỉ của quê hương mình.Bố cục của bài thơ đã thể hiện ý tưởng đó như thế nào?

2.Con được lớn lên trong tình yêu thương của cha mẹ, trong sự đùm bọc của quê hương. Hãy tìm và phân tích các câu thơ nói lên điều ấy.

3.Người cha nói với con về những đức tính cao đẹp gì của”người đồng mình”, từ đó nhắc nhở con trên đường đời cần phải như thế nào?

4. Em cảm nhận như thế nào về tình cảm của người cha đối với con trong bài thơ? Điều lớn lao nhất mà người cha muốn truyền cho con qua những lời này là gì?

5.Nhận xét về cách diễn tả tình cảm và suy nghĩ bừng hình ảnh của nhà thơ. (Gợi ý:  Người miền núi thường có cách nói giàu hình ảnh, cụ thể, mộc mạc mà có tính khái quát, giàu chất thơ. Chẳng hạn bốn dòng thơ đầu bài, hay các câu: “ Đan lờ cài nan hoa- Vách nhà ken câu hát”, “Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương…)

1
23 tháng 1 2018

1, Mượn lời một người cha nói với con, bài thơ gợi về cội nguồn của mỗi con người, đồng thời bộc lộ niềm tự hào trước sức sống mạnh mẽ, bền bỉ của quê hương mình. Bố cục của bài thơ thể hiện ý tưởng đó theo hai đoạn:

- Đoạn 1 (từ đầu đến câu "Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời"): con lớn lên trong tình yêu thương của cha mẹ và quê hương.

- Đoạn 2 (còn lại): lòng tự hào với sức sống mạnh mẽ, bền bỉ, với truyền thống cao đẹp của quê hương.

2, Con lớn lên hàng ngày trong tình yêu thương ấy, trong sự nâng niu, mong chờ của cha mẹ:

Không chỉ có tình yêu thương của cha mẹ, con còn lớn lên trong sự đùm bọc của quê hương: con người và rừng núi quê hương. Những từ ngữ giàu sắc thái biểu hiện (cài nan hoa, ken câu hát) đã miêu tả cụ thể cuộc sống ấy đồng thời thể hiện tình cảm gắn bó, quấn quýt của con người quê hương. Thiên nhiên với những sông, suối, ghềnh, thác... đã nuôi dưỡng con người cả về tâm hồn và lối sống: "Rừng cho hoa, con đường cho những tấm lòng".

3, Người cha nói với con về những đức tính cao đẹp của "người đồng mình" là:

- Dễ thương, giàu tình cảm (Người đồng mình thương lắm con ơi)

- Thủy chung, gắn bó với quê hương (Sống trên đá không chê đá gập ghềnh – Sống trong thung không chê thung nghèo đói)

- Hồn nhiên, mạnh mẽ (Sống như sông như suối - Lên thác xuống ghềnh – Không lo cực nhọc)

- Bản lĩnh, bền bỉ (Cao đo nỗi buồn – xa nuôi chí lớn - ... Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương)

- Mộc mạc, chân chất mà to lớn, kiêu hãnh (Người đồng mình thô sơ da thịt – Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con)

Từ đó nhắc nhở con khi lên đường phải nhớ rằng "người đồng mình" yêu lắm, phải giữ gìn truyền thống của người "đồng mình", và điều đặc biệt là không thể nhỏ bé, phải luôn đàng hoàng, bằng anh bằng em.

4, Qua những lời người cha nói với con, có thể thấy tình cảm của người cha đối với con thật trìu mến, thiết tha và tin tưởng. Điều lớn lao nhất mà người cha muốn nói với con chính là niềm tự hào với sức sống mạnh mẽ bền bỉ của quê hương và niềm tin khi bước vào đời.

5, Bài thơ có nhiều nét đặc sắc về nghệ thuật, tuy nhiên, độc đáo nhất và đặc sắc nhất là cách thể hiện, diễn tả tình cảm. Những từ ngữ, hình ảnh trong bài rất mộc mạc nhưng đồng thời cũng rất giàu hình ảnh gợi tả, vừa cụ thể vừa có sức khái quát cao.

Ngoài ra, còn có thể kể đến bố cục chặt chẽ, cách dẫn dắt rất tự nhiên của tác giả.

11 tháng 4 2022

1. Giới thiệu chung:

-         Y Phương là nhà thơ bắt đầu sáng tác và trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Mĩ. Ông được biết đến với một hồn thơ chân thật, mạnh mẽ, trong sáng và tư duy hình tượng mang nét riêng của văn hóa vùng cao.

Mượn lời cha nói với con, Y Phương đã gợi lên về cội nguồn sinh dưỡng của mỗi con người, lòng tự hào về sức sống mạnh mẽ, bền bỉ về truyền thống cao đẹp của quê hương và niềm mong ước hãy kế tục truyền thống ấy. Đoạn thơ trên thể hiện rõ điều đó.

 

    2.  Phân tích, chứng minh:

-         Đoạn thơ là lời nhắn nhủ của người cha với con  về cuộc sống lao động cần cù và tươi vui của “ người đồng mình” và phẩm chất cao đẹp của họ.

+ “ Người đồng mình” là người cùng làng, cùng miền, cùng vùng,nói rộng ra là người cùng quê hương, đất nước.Cách nói mang ngôn ngữ địa phương, mộc mạc nhưng rất gắn bó, đoàn kết và trân trọng. Con lớn lên trong cuộc sống lao động của người đồng mình và trong sự đùm bọc che chở cho quê hương.

+ Tự hào về “ người đồng mình” là những con người biết vượt hoàn cảnh khó khăn, sáng tạo. Họ luôn tự lực cánh sinh, làm giàu bằng sức lao động chân chính, mộc mạc nhưng giàu niềm tin.

+ Cuộc sống còn thiếu thốn, người dân còn lam lũ, “ thô sơ da thịt” nhưng họ không hề hèn kém, yếu đuối, không chịu “ nhỏ bé”, nghĩa là không sống khom lưng uốn gối trước thiên hạ.

+ Những con người tuy “ thô sơ da thịt” nhưng rất kiên trì, nhẫn nại trong cuộc sống. Họ biết sáng tạo “ đục đá kê cao quê hương” tạo nên những phong tục tập quán tốt đẹp.

+  Tinh thần tự tôn, ý thức bảo tồn cội nguồn: “ Tự đục đá” lao động thô sơ, thủ công, cải tạo đất đai để sinh cơ lập nghiệp, cải thiện cuộc sống sinh hoạt gia đình và kiến thiết  xây dựng quê hương. “ Quê hương thì làm phong tục” là cách nói mộc mạc nhưng ẩn ý sâu xa. Họ luôn giữ gìn bản sắc văn hóa củ a dân tộc. duy trì các tập quán, phong tục của quê hương và họ tự hào , có ý thức bảo tồn những nét văn hóa riêng của dân tộc mình.

+ Bằng trí tuệ và sức khỏe, họ đã biết tự lập, tự làm đẹp, tự làm giàu cho nới chôn rau cắt rốn.

-          Có thể nói, người cha rất tự hào khi nói về những phẩm chất tốt đẹp của người đồng mìnhtừ đó nhắc nhở con biết hướng về quê hương, làm giàu đẹp cho quê hương.

+ Bài học làm người mà cha dạy con tuy ngắn gọn nhưng  thấm thía và lay động biết bao.Y Phương nói một cách cụ thể, nói bằng hình ảnh mang phong cách dân tộc mình, “ Người đồng mình”.Lời thơ bình dị, tình cảm chân thành, giọng thơ tha thiết.

+ Cha nói với con , cha dạy con bài học làm người, biết giữ gìn phẩm chất đạo lý: yêu mến tự hào quê hương, sống có chí khí,sống đẹp như “ người đồng mình” đã bao đời nay.

+ Mong muốn của người cha về con tiếp tục sống ân nghĩa thủy chung với quê hương, vượt qua thử thách bằng ý chí, niềm tự hào, đó là hành trang để vững bước trên đường đời.

 

3. Đánh giá chung:

-         Với thể thơ tự do, mạch cảm xúc tự nhiên, cách nói giàu hình ảnh vừa mộc mạc , cụ thể giàu sức khái quát, thành ngữ gần gũi, giản dị, mộc mạc ngay thẳng như lời nói của người dân tộc.

-         Mượn lời nói với con, Y Phương gợi lên về cuộc nguồn sinh dưỡng của mỗi con người. Bộc lộ niềm tự hào về sức sống mạnh mẽ , bền bỉ của quê hương mình.Từ tình cảm gia đình mở rộng ra là tình cảm với quê hương, từ các kỉ niệm nâng lên thành lẽ sống.

25 tháng 3 2019

"Con ơi tuy thô sơ da thịt
Lên đường
Không bao giờ nhỏ bé đươc
Nghe con."

Câu thơ là lời nhắc nhở đầy cảm động: đừng chối bỏ cội nguồn dân tộc, hãy khắc sâu tình cảm quê hương vào trong trái tim mình, luôn tôn trọng và phát triển truyền thống dân tộc. Đó là tấm lòng của cha dành cho con hay nói đúng hơn là quê hương của mỗi chúng ta. Ngôn ngữ thơ mộc mạc, hình ảnh thơ vừa cụ thể, vừa khái quát, đậm chất trữ tình đã thể hiện được niềm tin tưởng, hy vọng của người cha đối với bước đường tương lai của con. Người cha luôn muốn nhắc nhở con phải “Không bao giờ nhỏ bé được” chính là muốn con phải luôn tự khẳng định mình, phải có ý thức vươn lên trong cuộc sống. Lời nhắc nhở của người cha tạo nên một âm hưởng thiết tha làm rung động tâm hôn chúng ta. Tác giả đã giúp ta cảm nhận được tình cảm gia đình ấm cúng, tình cảm quê hương sâu đậm đối với mỗi người.Càng hiểu sâu sắc bài thơ, ta càng hiểu thêm về sức sống và vẻ đẹp tâm hồn của một dân tộc miền núi. Từ đó gơi nhắc trong ta tình cảm gắn bó với truyền thống, với quê hương, tình đoàn kết dân tộc và ý chí vươn lên trong cuộc sống.

25 tháng 3 2019

"Con ơi tuy thô sơ da thịt
Lên đường
Không bao giờ nhỏ bé đươc
Nghe con."

Câu thơ là lời nhắc nhở đầy cảm động: đừng chối bỏ cội nguồn dân tộc, hãy khắc sâu tình cảm quê hương vào trong trái tim mình, luôn tôn trọng và phát triển truyền thống dân tộc. Đó là tấm lòng của cha dành cho con hay nói đúng hơn là quê hương của mỗi chúng ta. Ngôn ngữ thơ mộc mạc, hình ảnh thơ vừa cụ thể, vừa khái quát, đậm chất trữ tình đã thể hiện được niềm tin tưởng, hy vọng của người cha đối với bước đường tương lai của con. Người cha luôn muốn nhắc nhở con phải “Không bao giờ nhỏ bé được” chính là muốn con phải luôn tự khẳng định mình, phải có ý thức vươn lên trong cuộc sống. Lời nhắc nhở của người cha tạo nên một âm hưởng thiết tha làm rung động tâm hôn chúng ta. Tác giả đã giúp ta cảm nhận được tình cảm gia đình ấm cúng, tình cảm quê hương sâu đậm đối với mỗi người.Càng hiểu sâu sắc bài thơ, ta càng hiểu thêm về sức sống và vẻ đẹp tâm hồn của một dân tộc miền núi. Từ đó gơi nhắc trong ta tình cảm gắn bó với truyền thống, với quê hương, tình đoàn kết dân tộc và ý chí vươn lên trong cuộc sống.

4 tháng 12 2019

Đáp án C

Mộc mạc, chân chất mà to lớn, kiêu hãnh

13 tháng 9

chắc bạn đang học lớp 9 nên mik sẽ viết kiểu lớp 9 từ ngữ dễ hiểu nha
Trong cuộc sống, ai rồi cũng phải lớn lên và trưởng thành. Nhưng trưởng thành không chỉ có nghĩa là cao hơn, già hơn, mà còn là cách mỗi người biết sống có trách nhiệm với bản thân và với mọi người xung quanh. Vì thế, ý kiến “Tinh thần trách nhiệm với bản thân và cộng đồng là biểu hiện của sự trưởng thành” là hoàn toàn đúng.

Trước hết, trách nhiệm với bản thân là biết tự lo cho chính mình. Đó là khi ta biết giữ gìn sức khỏe, chăm chỉ học tập, làm việc nghiêm túc và tự chịu trách nhiệm với hành động của mình. Một học sinh có trách nhiệm sẽ không lười học, không viện cớ cho sự chậm trễ, mà tự giác cố gắng để tiến bộ.

Không chỉ với bản thân, người trưởng thành còn biết sống trách nhiệm với cộng đồng. Điều này thể hiện ở việc ta biết quan tâm, chia sẻ và giúp đỡ người khác. Ví dụ, trong đợt dịch bệnh vừa qua, nhiều bạn trẻ đã tham gia hỗ trợ chống dịch, phát cơm từ thiện, giúp đỡ người nghèo. Họ đã sống vì mọi người, và nhờ vậy mà xã hội trở nên tốt đẹp hơn.

Ngược lại, những người chỉ biết đến lợi ích cá nhân, không lo cho bản thân cũng chẳng quan tâm đến tập thể, thì khó có thể coi là người trưởng thành. Họ dễ bị người khác chê trách và khó được tin tưởng.

Là học sinh, chúng ta cần rèn luyện tinh thần trách nhiệm ngay từ bây giờ: học tập chăm chỉ, giữ vệ sinh lớp học, giúp đỡ cha mẹ, thầy cô và bạn bè. Khi biết sống có trách nhiệm, ta không chỉ trưởng thành hơn mà còn trở thành người có ích cho xã hội.

Kết lại, trưởng thành là khi ta biết tự lo cho bản thân và biết nghĩ đến cộng đồng. Tinh thần trách nhiệm chính là dấu hiệu rõ ràng nhất để nhận ra một người đã thật sự trưởng thành.
cho mik xin tick nha. Cảm ơn cậu!


2 tháng 2 2023

Linh cập nhật đưa 4 câu thơ đó lên luôn nhe.

Bài 1: Trong bài thơ “Đồng chí”, nhà thơ Chính Hữu có viết: Quê hương anh nước mặn, đồng chua Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá Anh với tôi đôi người xa lạ Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau Súng bên súng đầu sát bên đầu, Đêm rét chung...
Đọc tiếp

Bài 1: Trong bài thơ “Đồng chí”, nhà thơ Chính Hữu có viết:

Quê hương anh nước mặn, đồng chua

Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá

Anh với tôi đôi người xa lạ

Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau

Súng bên súng đầu sát bên đầu,

Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ.

Đồng chí!

(Trích Ngữ văn 9, tập một, NXB Giáo dục)

Câu 1: Dựa vào đoạn thơ trên, viết đoạn văn (khoảng 12 câu), theo cách lập luận diễn dịch trình bày suy nghĩ của em về cơ sở hình thành tình đồng chí keo sơn của những người lính cách mạng, trong đó có sử dụng một câu cảm thán và một lời dẫn trực tiếp (Gạch chân và ghi chú).

Bài 2: Cho đoạn trích sau:

Đối với cháu, thật là đột ngột, không ngờ lại là như thế. Chú lái máy bay có nhắc đến bố cháu, ôm cháu mà lắc “Thế là một – hòa nhé!”. Chưa hòa đâu bác ạ. Nhưng từ hôm ấy cháu sống thật hạnh phúc. Ơ, bác vẽ cháu đấy ư? Không, không, đừng vẽ cháu! Để cháu giới thiệu với bác những người khác đáng cho bác vẽ hơn.

(Trích Ngữ văn 9, tập một, NXB Giáo dục)

Câu 1: Trong đoạn trích, nhân vật anh thanh niên đã từ chối khi họa sĩ vẽ mình, muốn giới thiệu cho bác những người khác đáng vẽ hơn. Chi tiết này giúp em hiểu thêm điều gì về anh thanh niên?

Câu 2: Từ nhân vật anh thanh niên trong tác phẩm và những hiểu biết xã hội, hãy nêu suy nghĩ của em (khoảng 2/3 trang giấy thi) về đức tính khiêm tốn của con người trong cuộc sống.

1
21 tháng 2 2017

rong những năm tháng kháng chiến chống thực dân Pháp gian lao, lẽ đương nhiên, hình ảnh những người lính, những anh bộ đội sẽ trở thành linh hồn của cuộc kháng chiến, trở thành niềm tin yêu và hi vọng của cả dân tộc. Mở đầu bài thơ Đồng chí, Chính Hữu đã nhìn nhận, đã đi sâu vào cả xuất thân của những người lính:

Quê hương anh đất mặn đồng chua

Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá

Sinh ra ở một đất nước vốn có truyền thống nông nghiệp, họ vốn là những người nông dân mặc áo lính theo bước chân anh hùng của những nghĩa sĩ Cần Giuộc năm xưa. Đất nước bị kẻ thù xâm lược, Tổ quốc và nhân dân đứng dưới một tròng áp bức. Anh và tôi, hai người bạn mới quen, đều xuất thân từ những vùng quê nghèo khó. hai câu thơ vừa như đối nhau, vừa như song hành, thể hiện tình cảm của những người lính. Từ những vùng quê nghèo khổ ấy, họ tạm biệt người thân, tạm biệt xóm làng, tạm biệt những bãi mía, bờ dâu, những thảm cỏ xanh mướt màu, họ ra đi chiến đấu để tìm lại, giành lại linh hồn cho Tố quốc. Những khó khăn ấy dường như không thể làm cho những người lính chùn bước:

Anh với tôi đôi người xa lạ

Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau

Súng bên súng, đầu sát bên đầu

Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ

(4,0 điểm) Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5:BẾP LỬA – VẺ ĐẸP LẶNG THẦM CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ VIỆT (1) Đọc xong bài thơ, nhắm mắt lại tưởng tượng bạn sẽ hình dung thấy ngay hình ảnh bếp lửa hồng và dáng người bà lặng lẽ ngồi bên. Hình ảnh có tính sóng đôi này được hiện lên thật sống động, rõ ràng, như thể nét khắc, nét chạm vậy. Khi viết...
Đọc tiếp

(4,0 điểm) Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5:

BẾP LỬA – VẺ ĐẸP LẶNG THẦM CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ VIỆT

(1) Đọc xong bài thơ, nhắm mắt lại tưởng tượng bạn sẽ hình dung thấy ngay hình ảnh bếp lửa hồng và dáng người bà lặng lẽ ngồi bên. Hình ảnh có tính sóng đôi này được hiện lên thật sống động, rõ ràng, như thể nét khắc, nét chạm vậy. Khi viết bài thơ này, tác giả đang là sinh viên theo học ở nước ngoài. Không gian xa cách. Bên này nỗi nhớ thương là người bà và bên kia là cháu. Nỗi nhớ gọi về kỉ niệm. Trong vô vàn những kỉ niệm không đầu không cuối hiện về, có lẽ kỉ niệm ám ảnh nhất là hình dáng người bà và bếp lửa bà nhóm lên mỗi sớm mỗi chiều. Và cứ thế, như một thôi thúc tự nhiên, kỉ niệm và nỗi nhớ ấy bật lên thành các chữ: "Một bếp lửa…", "Một bếp lửa…", "Cháu thương bà biết mấy nắng mưa".

(2) Mở đầu bài thơ, hình ảnh bếp lửa xuất hiện ngay lập tức và được điệp lại. Và thế là từ đây, hình ảnh bếp lửa với sức ấm và ánh sáng của nó quán xuyến, lan toả toàn bài. Tựa như bếp lửa, nỗi nhớ của cháu đối với bà cũng ấm nóng, da diết, thấm thía trong từng câu chữ.

(3) Đi ra từ nỗi nhớ, tất cả mọi ngôn từ, hình ảnh, giọng điệu bị cuốn theo dòng hoài niệm. Một thời quá khứ được tái hiện lại trong tâm tưởng với những chi tiết rất mực cụ thể. Tác giả nâng niu từng mảnh kí ức hiện về. Bà, bếp lửa, tuổi thơ của cháu trong những năm nạn đói và trong những năm giặc giã. Bà, bếp kí ức của chính bà. Và cuối cùng sẽ là bà, bếp lửa của thì hiện tại, của hôm nay. Trong mấy dòng thơ mở đầu có một bếp lửa chập chờn mang màu cổ tích…

(4) Khổ thơ thứ hai nhắc đến nạn đói năm bốn nhăm, trước ngày cả nước giành chính quyền, người chết đói thê thảm khắp nơi. Cái mùi khói, khói hun trong khổ thơ có sức gợi rất nhiều, nhắc người đọc nhớ đến cảnh hun khói xua đuổi mùi tử khí được miêu tả trong thiên truyện "Vợ nhặt" nổi tiếng của Kim Lân. Ông viết: "Mùi đốt đống rấm ở những nhà có người chết theo gió thoảng vào khét lẹt.". Nhà thơ Bằng Việt chỉ với chi tiết rất tiêu biểu này đã gợi ra được một quá khứ tang thương, đầy những thảm cảnh gắn liền với những thân phận trong đó có người bà, người bố. Tình cảm của nhà thơ mang bao nỗi ngậm ngùi, xót xa.

(5) Cũng có thể hình dung hình ảnh bếp lửa trong tâm tưởng nhà thơ tựa như những thước phim đang chạy, làm hiện lên những khung cảnh quá khứ đầy cảm động. Đây là hình ảnh người bà: "Tu hú kêu trên những cánh đồng xa…", "Bà hay kể truyện những ngày ở Huế". Đến đây, hình ảnh người bà và bếp lửa gắn liền với tiếng kêu khắc khoải của loài chim tu hú. Tiếng kêu của loài chim này trong truyền thống văn học của ta thường gợi nhắc đến những nhớ nhung, xa cách, trông ngóng mòn mỏi… Đó là những âm thanh mang một sắc điệu buồn. Có thể bên bếp lửa, bà bỗng nhớ về những vui buồn thời con gái. Hình ảnh tiếng chim tu hú còn được nhắc lại ở cuối khổ tiếp theo. Phải nói rằng, sự có mặt của tiếng chim tu hú trong khổ thơ làm cho không gian kỉ niệm có chiều sâu. Nỗi nhớ của bà về quá khứ của mình, và nỗi nhớ của cháu về bà bỗng trở nên thăm thẳm, vời vợi. Câu thơ "Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa" như treo lên một nỗi khắc khoải khôn nguôi.

(6) Khổ thơ tiếp theo với hình ảnh bà cháu và bếp lửa trong những năm giặc giã. Bố mẹ ở chiến khu. Lời người bà dặn cháu thật nôm na, nhưng chân thực và cảm động: "Bố ở chiến khu bố còn việc bố/ Mày có viết thư chớ kể này kể nọ". Gian khổ, thiếu thốn, nhớ nhung đều phải giấu đi cho người ở xa được yên lòng. Tấm lòng của người bà thương con, thương cháu, ân cần, chu đáo xiết bao.

(7) Nếu từ đây hắt trở lên là hình ảnh bếp lửa, thì những câu thơ cuối của khổ thơ này, đã chuyển đổi cách gọi thành ngọn lửa. Và như vậy, từ bếp lửa trong sự tả thực, cụ thể, đến đây đã trở thành ngọn lửa trong ý nghĩa tượng trưng, khái quát. Bếp lửa với những ấm áp, tâm tình bình lặng của tình cảm gia đình, của tình bà cháu đã thành ngọn lửa của trái tim, của niềm tin và sức sống con người. Nhà thơ đã khái quát vẻ đẹp ngọn lửa là một vẻ đẹp "kì lạ và thiêng liêng". Tình thương và lòng nhân ái bao la của con người mãi ấm nóng, bền bỉ toả sáng, trường tồn. Kết thúc bài thơ, hình ảnh người bà và ngọn lửa được kết lại trong một câu hỏi tu từ: "Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?". Đó là một nỗi nhớ đau đáu, da diết, thường trực. Trong mọi trường hợp, người đàn bà dưới mái ấm gia đình thường gắn liền với những gì thường nhật, thân thiết nhất. Họ giữ cho nhịp sống của tổ ấm được duy trì. Họ là nơi cuối cùng để cho người ta có chỗ trở về sau những thăng trầm, thành bại ở đời. Trong dáng hình bình dị, thầm lặng khiêm nhường quá đỗi ấy, ẩn dấu một trái tim lớn đầy lòng nhân ái, khoan dung. Các dòng thơ như những làn ánh sáng hắt ra từ ngọn lửa ấm nóng, gợi nhắc, thấm thía tâm can người đọc. Nếu ai đã đọc "Đa-ghe-xtan của tôi" của nhà văn Ra-xun Gam-da-tốp, hẳn còn nhớ trong một thiên tuyệt bút với nhan đề "Cha và mẹ, lửa và nước" có nói về người mẹ dân tộc A-va trong cuộc đời chỉ có ba việc diễn ra đều đặn, nhưng bao giờ cũng khoan thai, chậm rãi, cẩn trọng, tựa hồ như những gì cần thiết và quý giá nhất, đó là: đi lấy nước, đưa nôi và nhóm lửa. Toàn bộ ý nghĩa cuộc sống của người đàn bà này chỉ ở trong ba việc thường nhật mà trọng đại đó. Ba công việc ấy vừa cổ sơ, nguyên thuỷ vừa bền bỉ vĩnh hằng. Người đàn bà ấy đã sinh thành, nhen nhóm và duy trì sự sống. Thế thì người bà trong "Bếp lửa" đã nuôi con nuôi cháu, đã đi qua đói khát và giặc giã, đã cho con đi kháng chiến vì nước vì dân, đã âm thầm trụ lại nhà giữ mảnh đất truyền đời tổ tiên để lại, đã âm thầm chờ đợi và hi vọng… đó chẳng phải là biểu tượng về sự sống lớn lao và cao cả của con người đó sao? Bà là người phụ nữ Việt Nam, như ngọn lửa cháy sáng và ấm mãi!...

(Văn Giá, theo Văn học và Tuổi trẻ, tập 44, 1999)

Câu 1. Vấn đề được nghị luận trong văn bản trên là gì?

Câu 2. Chỉ ra một câu văn cho thấy cảm nhận, đánh giá chủ quan của người viết trong đoạn (5).

Câu 3. Trong đoạn (4), tác giả so sánh mùi khói hun trong Bếp lửa với cảnh hun khói trong Vợ nhặt nhằm mục đích gì?

Câu 4. Chỉ ra những luận điểm được sử dụng trong văn bản. Em ấn tượng với luận điểm nào nhất? Vì sao?

Câu 5. Tình bà cháu – một ngọn lửa ấm áp và thiêng liêng – dường như đang đứng trước nguy cơ phai nhạt trong bối cảnh xã hội hiện đại với nhiều biến động. Làm thế nào để chúng ta có thể giữ gìn và phát huy mối liên kết vô giá này? Từ góc nhìn và trải nghiệm của bản thân, em hãy đề xuất những cách thức ý nghĩa để tăng cường sự gắn bó giữa bà và cháu trong cuộc sống hôm nay.

0