Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

Câu 14. Trong cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai ở Việt Nam sau Chiến tranh thế giới thứ nhất thực dân Pháp tăng cường đầu tư nhiều nhất vào lĩnh vực
A. công nghiệp chế tạo máy.
B. khai mỏ và đồn điền cao su.
C. giao thông vận tải.
D. thương nghiệp.

Đáp án B
Thực dân Pháp tăng cường đầu tư vào hai ngành này vì đây là hai ngành bỏ ít vốn nhưng thu lại lợi nhuận cao, khai mỏ trong đó đặc biệt than đá là nguồn nhiên liệu cực kỳ quan trọng trong vận hành sản xuất, cao su là nguyên liệu quan trọng sản xuất lốp ô tô-ngành sản xuất đang rất phát triển hồi bấy giời, ngoài ra, đầu tư vào những ngành này Pháp sẽ hạn chế đầu tư vào công nghiệp nặng.

Theo em những điểm mới của cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai (1919-1929) so với cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất (1897-1914) của thực dân Pháp ở Đông Dương là *
ngành giao thông vận tải được đầu tư nhiều nhất.
lĩnh vực khai mỏ được đầu tư nhiều nhất.
đầu tư với quy mô lớn, tốc độ nhanh.
nguồn vốn đầu tư chủ yếu là của tư bản nhà nước.
Theo em những điểm mới của cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai (1919-1929) so với cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất (1897-1914) của thực dân Pháp ở Đông Dương là *
ngành giao thông vận tải được đầu tư nhiều nhất.
lĩnh vực khai mỏ được đầu tư nhiều nhất.
đầu tư với quy mô lớn, tốc độ nhanh.
nguồn vốn đầu tư chủ yếu là của tư bản nhà nước.

Gửi Bích Vân!
Với câu hỏi này, em làm giúp cô một bảng nhé:
Đầu tư | Hướng đầu tư | |
Cuộc khai thác thuộc lần thứ nhất |
||
Cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai |
=> Nhận xét:
Chúc em học tốt!

Vì sao Pháp lại tập trung vào ngành nông nghiệp và khai thác mỏ khi tiến hành khai thác thuộc địa lần hai ở Việt Nam?
- Do nhu cầu về thị trường tiêu thụ lớn
- Thu lợi nhanh,nhiều,ít đầu tư về kĩ thuật
Hậu quả của chính sách đó là gì?
- Nền kinh tế Việt Nam đan xen giữ phương thức Tư bản chủ nghĩa và phong kiến
- Nền nông nghiệp lạc hậu, phụ thuộc vào thực dân Pháp
- Nguồn lợi tài nguyên thiên nhiên dần cạn kiệt
- Nhân dân bị bọc lột một cách nặng nề
tham khảo
Vì sao Pháp lại tập trung vào ngành nông nghiệp và khai thác mỏ khi tiến hành khai thác thuộc địa lần hai ở Việt Nam?
- Do nhu cầu về thị trường tiêu thụ lớn
- Thu lợi nhanh,nhiều,ít đầu tư về kĩ thuật
Hậu quả của chính sách đó là gì?
- Nền kinh tế Việt Nam đan xen giữ phương thức Tư bản chủ nghĩa và phong kiến
- Nền nông nghiệp lạc hậu, phụ thuộc vào thực dân Pháp
- Nguồn lợi tài nguyên thiên nhiên dần cạn kiệt
- Nhân dân bị bọc lột một cách nặng nề

Chính sách cai trị của thực dân Pháp
Từ cuối thế kỷ XIX, các phong trào đấu tranh yêu nước chống Pháp của nhân dân Nam Định đã dần tạm lắng xuống. Thực dân Pháp đã về căn bản đã hoàn thành công cuộc bình định và bắt đầu thực hiện các chính sách cai trị và khai thác thuộc địa của chúng.
Ngay sau khi bình định xong Nam Định, thực dân Pháp đã nhanh chóng tiến hành việc phân chia lại địa giới hành chính, bởi Nam Định là một tỉnh lớn, nếu giữ nguyên địa giới cũ sẽ không có lợi cho việc cai trị.
Đến đầu thế kỷ XX ở Nam Định có một thành phố và chín huyện. Đó là thành phố Nam Định và các huyện: Mỹ Lộc, Vụ Bản, Ý Yên, Trực Ninh, Nam Trực, Xuân Trường, Giao Thủy, Nghĩa Hưng và Hải Hậu.
Dưới tác động của công cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp, cấu trúc kinh tế - xã hội và bộ mặt của Nam Định đã có những biến đổi sâu sắc và toàn diện. Chỉ trong vòng hơn chục năm, bộ mặt thành phố đã hoàn toàn đổi khác. Tòa thành cũ đã bị người Pháp phá dỡ từng phần. Thay vào đó là những công sở, dinh thự mới mọc lên. Những đường phố mới được rải nhựa, đèn điện thắp sáng đêm đêm. Kho tàng, bến bãi, nhà ga xe lửa được xây dựng, tạo cơ sở cho việc xuất hiện Nhà máy dệt, Nhà máy tơ, Nhà máy chai...
Dân cư thành Nam cũng tăng nhanh với một kết cấu mới, đủ mặt mọi thành phần của cư dân đô thị cận đại: công nhân, tư sản, tiểu tư sản, học sinh, trí thức tự do, quan chức thực dân và bản xứ cùng một số không nhỏ nông dân ven thị. Nam Định dần trở thành một trong ba đô thị lớn nhất Bắc Kỳ thời Pháp thuộc.
Vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, ngành công nghiệp ở Nam Định đã hình thành và phát triển khá nhanh chóng. Cùng với Sài Gòn, Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định đã trở thành một trong những trung tâm công nghiệp lớn nhất Đông Dương. Tuy nhiên, ngành công nghiệp ở Nam Định thời kỳ này cũng bộc lộ những hạn chế nhất định. Giá trị sản lượng công nghiệp cao, nhưng thành quả lao động ấy chủ yếu rơi vào tay giới chủ, còn công nhân lao động chẳng được hưởng là bao. Công nghiệp ở Nam định chủ yếu là công nghiệp nhẹ, nhằm khai thác những nguồn lợi kinh tế của địa phương.
Sự phát triển mạnh mẽ của hệ thống mạng lưới chợ từ thành phố đến nông thôn, đặc biệt là chợ Rồng được xếp vị trí thứ hai ở Bắc Kỳ sau chợ Đồng Xuân (Hà Nội) về cả quy mô lẫn hoạt động kinh doanh đã chứng tỏ sự phát triển nhanh và mạnh của ngành thương nghiệp Nam Định. Thương nghiệp đã trở thành một trong những ngành kinh tế quan trọng ở Nam Định thời Pháp thuộc.
Hoạt động thủ công nghiệp ở Nam Định nổi tiếng là đẹp và tinh xảo, tuy nhiên, các hoạt động còn gắn chặt với nông nghiệp, phụ thuộc vào nông nghiệp. Chỉ trừ một số phố nghề ở thành phố có tính chuyên nghiệp cao, còn ở nông thôn số các làng chuyên, thợ chuyên không nhiều. Đây chính là hạn chế của thủ công nghiệp ở Nam Định.
Về nông nghiệp, bên cạnh cây lúa là cây trồng chính chiếm nhiều diện tích trồng trọt nhất và cũng là cây trồng chủ đạo để nuôi sống hàng chục vạn người dân, thì bông trở thành loại cây trồng đứng ở vị trí thứ hai.
Trong quá trình khai thác và bóc lột các nguồn lợi kinh tế ở Nam Định, bên cạnh việc du nhập về Nam Định một phương thức sản xuất mới - phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, thực dân Pháp vẫn duy trì phương thức sản xuất phong kiến, lỗi thời, lạc hậu.
Dưới tác động của quá trình nói trên, xã hội Việt Nam nói chung và Nam Định nói riêng đã có những biến chuyển sâu sắc với sự hình thành và phát triển của nhiều giai cấp khác nhau:
Giai cấp địa chủ: Nếu như cuộc cách mạng tư sản tiến công vào giai cấp địa chủ phong kiến và xoá bỏ nó, thiét lập quyền thống trị của giai cấp tư sản, thì tại Việt Nam, tư bản Pháp vẫn duy trì và dung dưỡng cho giai cấp địa chủ.Do đó giai cấp địa chủ không những không bị mất đi khi chủ nghĩa tư bản thâm nhập vào mà còn được củng cố, phát triển hơn trước, thậm trí còn trở thành cơ sở xã hội và là chỗ dựa vững chắc của chủ nghĩa tư bản Pháp.
Trong công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, có những địa chủ thể hiện tinh thần yêu nước bằng cách hưởng ứng các phong trào đấu tranh chống Pháp, nhưng phần lớn vì lợi ích cá nhân nên ủng hộ trật tự thực dân nửa phong kiến, thậm chí sẵn sàng hợp tác với Pháp chống lại phong trào yêu nước.
Giai cấp nông dân:Nông dân là lực lượng chiếm tuyệt đại đa số cư dân Nam Định, nhưng không phải là thuần nhất. Ít nhất họ cũng phân hoá thành ba tầng lớp khác nhau: Trung nông, bần nông, cố nông. Dưới ách thống trị của thực dân và phong kiến, nông dân Nam Định đã bị dồn vào bước đường cùng. Đó chính là nguyên nhân sâu xa khiến họ tích cực tham gia vào nhiều phong trào yêu nước, đặc biệt là từ khi họ được giác ngộ và tổ chức lại dưới ngọn cờ tiên phong của giai cấp công nhân.
Giai cấp công nhân: Đội ngũ công nhân Nam Định được hình thành cùng với quá trình khai thác thuộc địa của thực dân Pháp ở Nam Định. Số lượng công nhân ước tính khoảng 1.5 vạn người vào đầu thế kỷ XX. Đội ngũ công nhân sớm được giác ngộ ý thức giai cấp, sớm nhận rõ kẻ thù dân tộc cũng chính là kẻ thù giai cấp
Công nhân Nam Định đã tích cực hăng hái đứng lên đấu tranh, vào nửa sau nhứng năm 20 của thế kỷ XX, Nam Định là một trung tâm của phong trào công nhân Việt Nam, góp phần thúc đẩy quá trình hình thành một chính đảng của giai cấp công nhân ở Việt Nam.
Giai cấp tư sản: Cho đến trước cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới năm 1929, tu sản Nam Định không chỉ ít ỏi về số lượng mà còn yếu về thế lực kinh tế và chính trị.Chính vì đặc điểm này đã quy định thái độ chính trị của giai cấp tư sản .Một mặt họ chống đế quốc và phong kiến, tán thành độc lập, dân chủ và tự do. Mặt khác họ lại giữ thái độ dè dặt, lừng chừng, ngả theo cách mạng khi phong trào cách mạng lên cao và cũng sẵn sàng thoả hiệp khi đế quốc khủng bố mạnh. Nhìn chung họ thích cải lương hơn là cách mạng.
Giai cấp tiểu tư sản:Cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX, đội ngũ tiểu tư sản phát triển nhanh chóng theo đà đô thị hoá ở Nam Định. Họ bao gồm các thị dân, thợ thủ công, tiểu thương, tiểu chủ, học sinh,các thị xã thị trấn.Họ hợp thành một tầng lớp rất đông đảo ở Nam Định, chỉ riêng ở thành phố Nam Định có khoảng 38.000 dân. Đời sống của tầng lớp tiểu tư sản ở Nam Định nói chung là rất thấp và bấp bênh, hơn nữa họ phải gánh chịu những khoản thuế má nặng nề.Thực tế, tiểu tư sản, dặc biệt là giới chí thức, học sinh là ngòi nổ cho các phong trào cách mạng ở Nam Định đầu thế kỷ XX.
Dưới tác động của hai cuộc khai thác thuộc địa trước và sau Chiến tranh thế giới thứ nhất đã làm xuất hiện các giai tầng xã hội mới ở Nam Định, đại diện cho phương thức sản xuất mới tư bản chủ nghĩa. Các lực lượng xã hội mới chỉ là thiểu số, nắm trong tay một tiềm lực kinh tế hết sức hạn hẹp.
Cơ cấu xã hội truyền thống ở Nam Định đã bị biến đổi và xáo trộn mạnh, nhưng chưa bị phá vỡ và thay đổi căn bản. Chính điều này đã làm bộc lộ rõ tính chất nửa thuộc địa nửa phong kiến của xã hội Việt Nam nói chung và Nam Định nói riêng
Những biến đổi về kinh tế - xã hội và quá trình giao lưu tiếp xúc văn hóa Đông - Tây ở Nam Định đã dẫn đến những chuyển biến mới trong sinh hoạt văn hóa. Sự chuyển biến đó được biểu hiện rõ nét nhất trong sự hình thành nếp sống đô thị ở thành phố Nam Định. Nhưng mặt khác, quá trình đô thị hóa và việc du nhập lối sống phương Tây vào Thành Nam cũng làm nảy ra nhũng thói hư tật xấu mới như trộm cướp, đĩ điếm, nghiện hút...
Về giáo dục, Từ khi Pháp xâm chiếm Nam Định cho đến cuối thế kỷ XIX và những năm đầu thế kỷ XX, về căn bản thực dân Pháp vẫn giữ nguyên trạng hệ thống giáo dục cũ(Nho học) ở Nam Định. Học sinh đi học phải học thêm chữ Pháp và chữ quốc ngữ, toán và cách trí.Ngoài ra thực dân Pháp còn lập một trường đào tạo thông ngôn viên.
Năm 1915 đã diễn ra kỳ thi Hương cuối cùng ở trường thi Nam Định. Đây chính là điểm mốc đánh dấu sự chấm dứt của nền khoa cử nho giáo ở Nam Định. Thay vào đó chính phủ thực dân cho lập ra các trường Pháp - Việt, từng bước chuyển dần nền giáo dục theo mô hình phương Tây.
Chuyển biến lớn nhất về giáo dục ở Nam định từ cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX là sự tàn lụi của nền giáo dục Nho học và thay vào đó là nền giáo dục mới –Tây học. Giáo dục ở Nam định mới chỉ dừng lại ở một cấp độ thấp, chủ yếu là tiểu học và chỉ một số rất ít người được đi học, còn lại đại đa số nhân dân là mù chữ.
Tuy nhiên, chính nền giáo dục ấy đã sản sinh ra một tầng lớp trí thức Tây học yêu nước, chống đối lại sự cai trị của thực dân Pháp ở Nam Định.Lực lượng học sinh ở Nam Định không nhiều nhưng lại rất năng động, tài hoa, nhạy cảm, giàu lòng yêu nước, là ngòi nổ cho nhiều phong trào đấu tranh cách mạng ở trong những năm đầu thế kỷ XX.
Sau khi chiếm được thành Nam Định năm 1884 thực dân Pháp đã bắt đầu tính đến việc xây dựng một thành phố ở đây. Các công sở của người Pháp lần lượt mọc lên trên các phố phường như: Toà công sứ, Toà án Tây, Sở kho bạc ...., bên cạch đó là các nhà máy, xí nghiệp như: Nhà máy chai, nhà máy rượu, nhà máy sợi......Hệ thống chợ phục vụ nhu cầu trao đổi hàng hóa rất phát triển trong đó có 4 chợ lớn: Chợ Rồng, chợ Vị Hoàng, chợ Của Trường...
Trước sự lớn mạnh và phát triển của thành phố, ngày 17-10-1921, Toàn quyền Đông Dương đã ra quyết định công nhận Nam Định được hưởng quy chế của một thành phố cấp II.
Thành phố Nam Định, không chỉ là một thành phố công thương nghiệp nổi tiếng đầu thế kỷ XX, mà còn trở thành một trung tâm sinh hoạt văn hóa - tư tưởng lớn, một điểm tiếp xúc của luồng giao lưu văn hóa Đông - Tây. Các cụ Phan Bội Châu, Lương Văn Can đều đã tìm đến Nam Định, tuyên truyền và vận động sự ủng hộ của nhân dân Nam Định tham gia phong trào Đông Du và Đông Kinh nghĩa thục.
Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên cũng phát triển cơ sở bắt đầu từ thành phố này. Chính thành phố Nam Định đã tạo ra các điều kiện về cơ sở vật chất - xã hội cần thiết cho phong trào yêu nước cách mạng của nhân dân Nam Định đầu thế k ỷ XX. Hầu hết các cuộc đấu tranh lớn nhỏ của các giai tầng xã hội ở Nam Định đều nổ ra chủ yế...

Đáp án D
Trong cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai, thực dân Pháp đầu tư vốn mạnh vào nông nghiệp và khai mỏ. Số vốn Pháp đầu tư vào nông nghiệp là 400 triệu Phrăng gấp 10 lần so với cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất. Vì đây là hai ngành bỏ vốn ít nhưng lợi nhuận thu lại cao, nhân công giá rẻ, trong đó trọng điểm là cao su và than đá là những nguyên liệu rất có giá trị trên thị trường, ngoài ra, đây là những ngành công nghiệp nhẹ, Pháp đầu tư các ngành này để buộc kinh tế nước ta phụ thuộc nặng nề vào kinh tế Pháp.
Đáp án là B.