Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

* Sự khác nhau giữa người kể chuyện trong truyện ngắn và truyện kí.
- Người kể chuyện trong truyện ngắn thường tập trung vào một câu chuyện cụ thể và phát triển các nhân vật và sự kiện trong câu chuyện đó.
- Trong truyện kí, người kể chuyện thường ghi lại các sự kiện và hiện tượng một cách khách quan hơn, không tập trung vào việc xây dựng nhân vật và câu chuyện.
* Em ấn tượng nhất với truyện “Chiều sương” vì câu chuyện ánh lên ngọn lửa hi vọng về sự sống và hi vọng giản đơn của những người dân chài. Tác giả đã mô tả một cách tinh tế những xúc cảm của nhân vật, tạo nên một bức tranh tuyệt đẹp về cuộc sống của những người dân chài và hy vọng của họ trong cuộc sống.

Câu 1.
Phương thức biểu đạt chính của văn bản: Nghị luận (kết hợp với phân tích, bình giảng).
Câu 2.
Trong phần (3), người viết thể hiện cảm xúc bâng khuâng, cô đơn, nhỏ bé, lạc lõng giữa không gian rộng lớn và dòng chảy của thời gian. Thái độ là sự đồng cảm sâu sắc với tâm trạng cô đơn của nhân vật trữ tình trong Tràng giang, đồng thời tự soi chiếu, liên tưởng bản thân như một cành củi khô hay cánh chim nhỏ bé trên dòng đời mênh mông.
Câu 3.
Trong phần (1), tác giả chỉ ra sự khác biệt:
- Thơ xưa: cái “tĩnh vắng mênh mông” thường gắn với sự thanh thản, an nhiên, tự tại.
- Tràng giang (Huy Cận): cái “tĩnh vắng” ấy lại gợi lên sự cô đơn, quạnh hiu, trống trải đến tuyệt đối, làm dấy lên nỗi nhớ nhà thường trực trong lòng người.
Câu 4.
Trong phần (2), tác giả đã phân tích nhiều yếu tố ngôn ngữ của bài thơ để làm rõ “nhịp chảy trôi miên viễn” của tràng giang:
- Các từ láy: điệp điệp, song song, lớp lớp, dợn dợn… gợi sự triền miên, nối tiếp.
- Các cặp câu tương xứng, đuổi nhau: “Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp/ Con thuyền xuôi mái nước song song”.
- Cấu trúc trùng điệp, nối tiếp: “Nắng xuống/ trời lên/ sâu chót vót. Sông dài/ trời rộng/ bến cô liêu”.
- Cụm từ chỉ sự nối dài, liên tục: “hàng nối hàng”, “Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”…
→ Tất cả tạo nên một nhịp điệu chảy xuôi vô tận, miên viễn của Tràng giang.
Câu 5.
(Trả lời mở, gợi ý như sau)
Em ấn tượng nhất với cảm giác cô đơn, lạc lõng của con người trước không gian và thời gian vô tận trong Tràng giang. Bởi vì qua đó, em nhận ra tấm lòng tha thiết của Huy Cận đối với quê hương, đồng thời cảm nhận được nỗi niềm nhân thế sâu xa: con người dù nhỏ bé, cô đơn vẫn luôn hướng về cội nguồn để tìm điểm tựa tinh thần.

Từ truyện ngắn Tầng hai, ta có thể rút ra mối quan hệ giữa con người với con người, về quan niệm hạnh phúc trong xã hội hiện đại như sau:
+ Đầu tiên, qua câu truyện ngắn này, ta có thể thấy trong xã hội hiện đại, con người ngày càng xa cách với nhau hơn do nhiều yếu tố. Như Phan - nhân vật trong truyện cùng gia đình chủ nhà cô thuê sống trên tầng hai, dù ở chung một nhà nhưng họ cứ như không quen biết nhau, mỗi một tầng nhà là một khoảng trời riêng, ai sống thế nào thì vẫn cứ vậy. Cũng do họ không thân thiết và do có sự khác biệt lớn trong tính cách và cách sống nên chuyện không hòa hợp được với nhau cũng là điều bình thường. Nhưng điều ấy hoàn toàn có thể thay đổi được nếu chúng ta chủ động hơn và hòa đồng hơn như cách Phan ngại ngùng đứng chân cầu thang định lên thăm gia đình tầng hai nhưng lưỡng lự và được họ mời lên nhà.
+ Phan cũng là một đại diện cho những lớp trẻ ngày nay, muốn tương lai rộng mở nên lên thành phố lập nghiệp. Cuộc sống buồn tẻ, lặp lại lặp lại và còn cô đơn hơn khi chứng kiến những khoảnh khắc hạnh phúc của gia đình người khác khiến cô nhớ nhà và thấy tủi thân. Tuy nhiên, họ luôn không có ý định về quê mà luôn tìm kiếm hạnh phúc ở thành phố ồn ào, náo nhiệt này. Nhưng khi chứng kiến khung cảnh tuy nhỏ hẹp nhưng hạnh phúc của gia đình tầng hai khiến Phan cảm thấy hạnh phúc đơn gian hơn cô tâm niệm. Từ đó có thể thấy ở thời hiện đại, chúng ta luôn nghĩ xa đến những điều tận đẩu tận đâu mà không biết rằng hạnh phúc đơn giản luôn hiện hữu ngay trước mắt chúng ta.
+ Về mối quan hệ giữa con người với con người: Trong xã hội hiện đại, có thể thấy rằng do nhiều yếu tố mà con người đang ngày càng cách xa nhau hơn. Dù ở chung một nhà như Phan hay gia đình sống trên tầng hai của câu chuyện, hay sống cùng xóm, cùng thành phố, chúng ta vẫn thường không quan tâm và trò chuyện nhiều với nhau. Có thể do tính cách ngại ngùng, có thể do lối sống quá khác biệt, hay cũng có thể do cuồng quay của công việc khiến con người luôn trong trạng thái mật mỏi. Nhưng chúng ta hoàn toàn có thể thay đổi tình trạng này bằng cách chủ động hơn và hòa đồng hơn như cách Phan đến thăm gia đình tầng hai và được mời lên nhà. Chúng ta nên học cách quan tâm người khác hơn và tạo nhiều mối quan hệ hơn với mọi người ở mọi lứa tuổi, mọi tầng lớp.

Truyện ngắn Tầng hai của Nguyễn Minh Châu đã khắc họa một bức tranh hiện thực về mối quan hệ giữa con người với con người trong xã hội hiện đại. Đó là một mối quan hệ phức tạp, đầy mâu thuẫn và cạm bẫy.
Mối quan hệ giữa con người với con người trong xã hội hiện đại ngày càng trở nên xa cách và lạnh lùng. Mọi người đều bận rộn với cuộc sống của riêng mình, không có thời gian để quan tâm đến nhau. Họ sống trong những thế giới riêng biệt, không giao tiếp với nhau, không hiểu nhau. Điều này dẫn đến sự cô đơn, lạc lõng và vô nghĩa trong cuộc sống của mỗi người.
Quan niệm hạnh phúc trong xã hội hiện đại cũng thay đổi rất nhiều so với trước đây. Trước đây, hạnh phúc được coi là một trạng thái tâm lý bình yên, hài lòng với cuộc sống. Nhưng ngày nay, hạnh phúc được coi là một trạng thái kiếm được nhiều tiền, có một cuộc sống giàu sang, quyền lực. Đây là một quan niệm hạnh phúc rất sai lầm. Hạnh phúc không phải là những thứ vật chất bên ngoài. Hạnh phúc là một trạng thái tâm lý bình yên, hài lòng với cuộc sống, được sống với những người mình yêu thương.
Truyện ngắn Tầng hai đã gửi gắm một thông điệp sâu sắc về mối quan hệ giữa con người với con người và quan niệm hạnh phúc trong xã hội hiện đại. Chúng ta cần sống chậm lại, quan tâm đến nhau nhiều hơn, tìm kiếm hạnh phúc trong những điều giản dị nhất của cuộc sống.

câu 1
Nhân vật bé Em trong truyện "Áo Tết" của Nguyễn Ngọc Tư là một hình ảnh tiêu biểu cho sự ngây thơ, trong sáng nhưng cũng đầy sâu sắc và tình cảm. Bé Em, một cô bé khoảng 10 tuổi, sống cùng bà trong một ngôi nhà nghèo khó ở miền Tây Nam Bộ. Dù hoàn cảnh khó khăn, bé Em luôn giữ trong mình niềm vui và hy vọng về một cuộc sống tốt đẹp hơn. Chiếc áo Tết mới không chỉ là một món quà vật chất mà còn là biểu tượng của những ước mơ giản dị nhưng đầy ý nghĩa của em. Bé Em rất yêu quý chiếc áo này, không chỉ vì nó đẹp mà còn vì đó là món quà duy nhất mà bà có thể tặng.
Tính cách của bé Em được thể hiện qua sự nhạy cảm và tinh tế trong cách em đối xử với mọi người xung quanh. Em luôn quan tâm, chăm sóc bà, hiểu được nỗi khổ của bà và không phàn nàn về hoàn cảnh khó khăn. Tình bạn chân thành của bé Em với Bích cũng là một điểm sáng trong truyện. Dù hoàn cảnh gia đình khác nhau, bé Em luôn quan tâm và chia sẻ với bạn, không khoe khoang về những bộ đồ mới của mình khi biết Bích chỉ có một bộ đồ mới cho Tết.
Những hành động nhỏ nhưng đầy ý nghĩa của bé Em thể hiện sự cảm thông sâu sắc và lòng yêu thương vô bờ bến. Em luôn cố gắng làm cho bạn cảm thấy vui vẻ và không bị tự ti về hoàn cảnh của mình. Qua nhân vật bé Em, Nguyễn Ngọc Tư đã truyền tải một thông điệp sâu sắc về tình cảm gia đình, sự hy sinh và lòng yêu thương, đồng thời khắc họa một hình ảnh tuổi thơ trong sáng nhưng cũng đầy nghị lực và hy vọng.
câu 2
Từ truyện ngắn "Áo Tết", chúng ta học được rằng tình bạn và sự đồng cảm còn quý hơn vật chất. Nhân vật bé Em đã cho thấy sự trưởng thành khi nhận ra giá trị tinh thần này, nhắc nhở mỗi người cần biết cân bằng giữa nhu cầu vật chất và giá trị tinh thần, đặt tình cảm, sự sẻ chia lên trên vật chất phù phiếm. Để xây dựng lối sống hài hòa, ta cần rèn luyện lòng nhân ái, thực hành sẻ chia từ việc nhỏ, tham gia các hoạt động cộng đồng và xây dựng môi trường giáo dục đề cao giá trị tinh thần.
* Giá trị nhân đạo:
- Thơ chữ Hán của Nguyễn Du như nhật ký cuộc đời tác giả, là bức chân dung tự họa về một con người có tấm lòng nhân đạo bao la, sâu sắc. Trái tim nhân đạo của đại thi hào thể hiện ở lòng thương người và niềm tự thương.
+ Với niềm thương cảm sâu sắc, Nguyễn Du hướng về những số phận đau khổ, bất hạnh.
+ Viết về những con người có tài năng, có khí tiết thanh cao, Nguyễn Du vừa thể hiện niềm cảm thương, vừa trân trọng, ngưỡng mộ.
+ Nguyễn Du cảm nhận mình là người cùng hội cùng thuyền với số phận tài hoa mà bi kịch, do vậy từ lòng thương người, ông trở về với niềm tự thương.
- Truyện Kiều là bức tranh hiện thực về một xã hội bất công, tàn bạo với tầng lớp quan lại gian ác, những kẻ lưu manh, vô lại bất nhân, sự khuynh đảo của thế lực đồng tiền,… Trong xã hội ấy, những người lương thiện, những thân phận nhỏ bé bị chà đạp, dập vùi.
- Ông thể hiện tiếng nói đồng cảm với bi kịch, đồng tình với những khát vọng chân chính của con người: khát vọng tình yêu, khát vọng
* Giá trị hiện thực:
- Tái hiện lên hoàn cảnh sống của những số phận cơ cực, hẩm hiu (ông già mù hát rong, người mẹ dắt con đi ăn xin,…), những con người sắc tài mà bi kịch (người phụ nữ gảy đàn đất Long Thành, nàng Tiểu Thanh;…). => những bất công của xã hội, những cảnh đời trái ngược.

Câu 1. Phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong đoạn trích: Nghị luận.
Câu 2. Theo đoạn trích, người có lí và người vô lí khác nhau ở chỗ:
“Người có lý điều chỉnh bản thân theo thế giới; người vô lý kiên định điều chỉnh thế giới theo bản thân.”
Tức là người có lí thuận theo những điều hiển nhiên đã được thế giới công nhận, còn người vô lí thì ngược lại.
Câu 3. Dựa vào đoạn trích, người vô lí được hiểu là người biết phản biện, nghi ngờ những kiến thức sẵn có, biết đẩy xa những giới hạn, biết lật lại những cái mặc định, đương nhiên, biết dũng cảm, can trường khai phá cái mới dù bị chỉ trích, cười nhạo viển vông…
Câu 4.
- Đồng tình vì:
+ Người biết ước mơ dám suy nghĩ đến những điều không tưởng.
+ Người biết ước mơ lớn tưởng như viển vông nhưng có năng lực, ý chí có thể đạt đến những thành tựu…
c1; nghị luận
c2; người có lí...... thế giới,người vô lí...bản thân
c3?
c4?
[ e mới học lớp 7 thôi ko biết có đ ko]
k cho e ạ , mong chị thông cảm
* Điểm tương đồng: đều nói về mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên, thái độ của con người với tự nhiên.
* Điểm khác nhau:
Chiều sương
Muối của rừng
Đối tượng tự nhiên
Biển cả
Rừng núi
Tác động với tự nhiên
Thụ động (thiên nhiên tấn công con người).
Chủ động (con người tấn công thiên nhiên).
Thái độ của con người
- Xem tự nhiên là nguồn sống.
- Từ sợ sệt đến chai lì, quen thuộc trước những bất trắc của tự nhiên.
- Xem tự nhiên là thú vui.
- Ban đầu áp đặt những suy nghĩ của mình lên tự nhiên, về sau được cảm hóa và trở về với bản chất thiện lượng, hòa hợp và yêu mến tự nhiên.
Lí giải
Chiều sương được viết dưới một cái nhìn nhân văn về biển cả – quê hương Bùi Hiển, chan chứa yêu thương về con người, không nhằm mục đích phân tích, lí giải, đi sâu vào mối quan hệ giữa con người và tự nhiên. Việc miêu tả sự bất trắc của tự nhiên chỉ là cái cớ để nói lên lòng thông cảm sâu sắc với những con người bình thường, có số phận không may mắn (có thể đọc thêm bút ký Bám biển cùng của nhà văn).
- Muối của rừng là một trong những tác phẩm đầu tiên của văn học đương đại Việt Nam viết về sinh thái. Tác giả chú tâm miêu tả quá trình tương tác giữa con người và tự nhiên và được thiên nhiên chữa lành những thành kiến, suy nghĩ tiêu cực của con người. Vì lẽ đó mà Muối của rừng được phân tích và lí giải kỹ hơn mối quan hệ giữa con người và tự nhiên.
- Giai đoạn Nguyễn Huy Thiệp sáng tác là thời kỳ những vấn đề sinh thái đang được đặt ra nghiêm trọng nên tác giả xoáy sâu vào đề tài này.