K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

22 tháng 9

Kim Lân là cây bút truyện ngắn đặc sắc của văn học Việt Nam hiện đại, được mệnh danh là “nhà văn của người nông dân”. Tác phẩm Vợ nhặt là một trong những sáng tác tiêu biểu nhất của ông, viết về nạn đói khủng khiếp năm 1945. Không chỉ thành công ở giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc, truyện ngắn này còn gây ấn tượng mạnh mẽ bởi những nét đặc sắc trong nghệ thuật tự sự – cách kể chuyện, dựng tình huống và xây dựng nhân vật vô cùng độc đáo.

Trước hết, Kim Lân đã sáng tạo nên một tình huống truyện vừa lạ lùng vừa giàu sức gợi: giữa nạn đói chết chóc, một anh dân nghèo xấu xí như Tràng lại lấy được vợ chỉ sau mấy câu nói bông đùa. Tình huống ấy vừa kịch tính, vừa éo le, lại vừa chất chứa hi vọng. Chính tình huống “nhặt vợ” ấy đã làm bật lên số phận thê thảm của con người trong nạn đói, đồng thời hé lộ vẻ đẹp nhân hậu, khát vọng sống và khát vọng hạnh phúc của họ. Đây là điểm sáng đặc biệt, làm nên sức hấp dẫn tự sự của tác phẩm.

Cùng với đó, nghệ thuật khắc họa nhân vật trong Vợ nhặt cũng hết sức tinh tế. Tràng được miêu tả qua những cử chỉ, lời nói, tâm lý giản dị mà sống động, từ chỗ ngỡ ngàng đến vui sướng, rồi dần dần biết lo nghĩ cho tương lai. Người “vợ nhặt” ban đầu hiện lên thô lỗ, chỏng lỏn, nhưng khi về nhà chồng lại bộc lộ sự nết na, hiền dịu, giàu tình cảm. Bà cụ Tứ hiện lên qua lời nói móm mém, vừa hiền từ vừa ngậm ngùi, vừa đau xót cho số kiếp, vừa chan chứa yêu thương con. Kim Lân không chú trọng miêu tả ngoại hình mà tập trung vào tâm lý nhân vật qua những chi tiết rất đời thường, nhờ đó mỗi nhân vật đều trở nên sống động và gần gũi.

Ngôn ngữ tự sự của Kim Lân cũng rất đặc sắc. Ông sử dụng lời kể giản dị, đậm chất khẩu ngữ nông thôn, phù hợp với từng nhân vật. Tràng thì tếu táo, hồn nhiên; bà cụ Tứ thì thủ thỉ, ngậm ngùi; người vợ nhặt thì khi chỏng lỏn, lúc lại e dè, hiền thục. Nhờ cách kể mộc mạc, chân thực ấy mà câu chuyện trở nên tự nhiên, gần gũi, lay động lòng người.

Điểm nhìn trần thuật trong tác phẩm cũng linh hoạt. Truyện kể ở ngôi thứ ba, nhưng chủ yếu gắn với Tràng, nhờ đó người đọc có thể theo sát sự biến đổi tâm lý của nhân vật chính. Đôi khi điểm nhìn chuyển sang bà cụ Tứ hay người vợ nhặt, khiến câu chuyện có chiều sâu hơn, đa dạng hơn trong cảm nhận.

Đặc biệt, Kim Lân còn tạo nên những chi tiết giàu sức gợi, ám ảnh và giàu ý nghĩa biểu tượng. Hình ảnh “nồi cháo cám” trong bữa cơm ngày đói vừa bi thương vừa sáng lên tình cảm gia đình và niềm tin vào sự sống. Hình ảnh lá cờ đỏ phấp phới hiện lên trong tâm trí Tràng ở cuối truyện là chi tiết mang tính dự báo, mở ra con đường sống mới, gắn số phận cá nhân với vận mệnh dân tộc.

Có thể thấy, với tình huống truyện độc đáo, cách khắc họa nhân vật tinh tế, ngôn ngữ mộc mạc mà giàu sức gợi cùng điểm nhìn kể chuyện linh hoạt, Kim Lân đã làm cho Vợ nhặt trở thành một tác phẩm xuất sắc của văn học hiện đại Việt Nam. Nghệ thuật tự sự của ông vừa giản dị, vừa thấm đẫm nhân văn, qua đó làm nổi bật khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc và niềm tin bất diệt vào con người ngay trong hoàn cảnh khốn cùng nhất.

22 tháng 9

Kim Lân là cây bút truyện ngắn đặc sắc của văn học Việt Nam hiện đại, được mệnh danh là “nhà văn của người nông dân”. Tác phẩm Vợ nhặt là một trong những sáng tác tiêu biểu nhất của ông, viết về nạn đói khủng khiếp năm 1945. Không chỉ thành công ở giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc, truyện ngắn này còn gây ấn tượng mạnh mẽ bởi những nét đặc sắc trong nghệ thuật tự sự – cách kể chuyện, dựng tình huống và xây dựng nhân vật vô cùng độc đáo.

Trước hết, Kim Lân đã sáng tạo nên một tình huống truyện vừa lạ lùng vừa giàu sức gợi: giữa nạn đói chết chóc, một anh dân nghèo xấu xí như Tràng lại lấy được vợ chỉ sau mấy câu nói bông đùa. Tình huống ấy vừa kịch tính, vừa éo le, lại vừa chất chứa hi vọng. Chính tình huống “nhặt vợ” ấy đã làm bật lên số phận thê thảm của con người trong nạn đói, đồng thời hé lộ vẻ đẹp nhân hậu, khát vọng sống và khát vọng hạnh phúc của họ. Đây là điểm sáng đặc biệt, làm nên sức hấp dẫn tự sự của tác phẩm.

Cùng với đó, nghệ thuật khắc họa nhân vật trong Vợ nhặt cũng hết sức tinh tế. Tràng được miêu tả qua những cử chỉ, lời nói, tâm lý giản dị mà sống động, từ chỗ ngỡ ngàng đến vui sướng, rồi dần dần biết lo nghĩ cho tương lai. Người “vợ nhặt” ban đầu hiện lên thô lỗ, chỏng lỏn, nhưng khi về nhà chồng lại bộc lộ sự nết na, hiền dịu, giàu tình cảm. Bà cụ Tứ hiện lên qua lời nói móm mém, vừa hiền từ vừa ngậm ngùi, vừa đau xót cho số kiếp, vừa chan chứa yêu thương con. Kim Lân không chú trọng miêu tả ngoại hình mà tập trung vào tâm lý nhân vật qua những chi tiết rất đời thường, nhờ đó mỗi nhân vật đều trở nên sống động và gần gũi.

Ngôn ngữ tự sự của Kim Lân cũng rất đặc sắc. Ông sử dụng lời kể giản dị, đậm chất khẩu ngữ nông thôn, phù hợp với từng nhân vật. Tràng thì tếu táo, hồn nhiên; bà cụ Tứ thì thủ thỉ, ngậm ngùi; người vợ nhặt thì khi chỏng lỏn, lúc lại e dè, hiền thục. Nhờ cách kể mộc mạc, chân thực ấy mà câu chuyện trở nên tự nhiên, gần gũi, lay động lòng người.

Điểm nhìn trần thuật trong tác phẩm cũng linh hoạt. Truyện kể ở ngôi thứ ba, nhưng chủ yếu gắn với Tràng, nhờ đó người đọc có thể theo sát sự biến đổi tâm lý của nhân vật chính. Đôi khi điểm nhìn chuyển sang bà cụ Tứ hay người vợ nhặt, khiến câu chuyện có chiều sâu hơn, đa dạng hơn trong cảm nhận.

Đặc biệt, Kim Lân còn tạo nên những chi tiết giàu sức gợi, ám ảnh và giàu ý nghĩa biểu tượng. Hình ảnh “nồi cháo cám” trong bữa cơm ngày đói vừa bi thương vừa sáng lên tình cảm gia đình và niềm tin vào sự sống. Hình ảnh lá cờ đỏ phấp phới hiện lên trong tâm trí Tràng ở cuối truyện là chi tiết mang tính dự báo, mở ra con đường sống mới, gắn số phận cá nhân với vận mệnh dân tộc.

Có thể thấy, với tình huống truyện độc đáo, cách khắc họa nhân vật tinh tế, ngôn ngữ mộc mạc mà giàu sức gợi cùng điểm nhìn kể chuyện linh hoạt, Kim Lân đã làm cho Vợ nhặt trở thành một tác phẩm xuất sắc của văn học hiện đại Việt Nam. Nghệ thuật tự sự của ông vừa giản dị, vừa thấm đẫm nhân văn, qua đó làm nổi bật khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc và niềm tin bất diệt vào con người ngay trong hoàn cảnh khốn cùng nhất.

4 tháng 10 2024

Nam Cao nổi tiếng là một nhà văn tài ba, những sáng tác của ông đều đa số viết về số phận của người nông dân trong xã hội ngày xưa, bức tranh cuộc sống đói nghèo, vất vả và tác phẩm Nghèo cũng là một tác phẩm xuất sắc như thế. Sau đây, mời các em tìm hiểu bài viết nghị luận, phân tích và đánh giá chủ đề và nhân vật trong truyện ngắn Nghèo của Nam Cao...

Xem thêm: https://toploigiai.vn/nghi-luan-phan-tich-va-danh-gia-chu-de-va-nhan-vat-trong-truyen-ngan-ngheo-cua-nam-cao

HQ
Hà Quang Minh
Giáo viên
29 tháng 1 2024

Bài viết tham khảo

     “Vợ nhặt” là một trong những tác phẩm độc đáo của Kim Lân khi viết về cuộc sống và con người ở nông thôn. Khi viết về truyện ngắn, có ý kiến cho rằng: “Một trong những sáng tạo nghệ thuật đặc sắc của Kim Lân trong truyện ngắn “Vợ nhặt” là đã xây dựng được tình huống truyện độc đáo và hấp dẫn”. Có thể nói, đây chính là yếu tố tạo nên thành công của tác phẩm.

     Là cây bút truyện ngắn vững vàng, Kim Lân viết về người nông dân và cuộc sống ở nông thôn bằng tình cảm, tâm hồn của người vốn là “con đẻ” của đồng ruộng. Những ông Hai, bà cụ Tứ, anh cu Tràng... hiện lên trong tác phẩm hồn hậu chân thực, chất phác và chiếm được nhiều thiện cảm trong lòng người đọc. Sáng tác ngay sau khi cách mạng tháng Tám thành công và sau này được viết lại vào khoản sau hòa bình lập lại (1954) truyện ngắn có tiền thân là tiểu thuyết “Xóm ngụ cư”, là câu chuyện kể về cuộc sống của những người không có “hộ khẩu” chính thức trên mảnh đất mà mình sinh sống. Trên cái nền lịch sử của nạn đói năm 1945, Kim Lân đã đặt nhân vật của mình vào trong một tình huống độc đáo vừa buồn vừa vui, có hạnh phúc nhưng cũng đầy rẫy những lo toan. Nghệ thuật xây dựng tình huống là việc đặt nhân vật vào trong những ngữ cảnh nhất định, làm môi trường cho nhân vật hoạt động qua đó bộc lộ phẩm chất, cá tính. Trong tác phẩm, Kim Lân đã sáng tạo ra một tình huống đặc biệt. Đó là tình huống anh nông dân nghèo tên Tràng, xấu trai, đang có nguy cơ ế vợ bỗng nhiên lại có vợ, mà lại là nhặt được vợ, là theo không chỉ nhờ một câu hát vu vơ và bốn bát bánh đúc. Tình huống ấy kéo theo hàng loạt các tình huống khác không kém phần lí thú. Tình huống này gây nên sự ngạc nhiên cao độ trong xóm ngụ cư, cho mẹ Tràng và ngay cả bản thân anh cu Tràng nữa bởi hai lý do: Ai có thể ngờ rằng một người nghèo túng, xấu trai, thậm chí có vẻ hơi ngờ nghệch lại là dân ngụ cư như Tràng, xưa nay con gái không ai thèm để ý, vả lại cũng không có tiền cưới vợ mà nay bỗng dưng lấy được vợ, mà là theo khống hẳn hoi. Hơn nữa, trong một bối cảnh như thời điểm ấy, khi cái đói đang hoành hoành, khắp nơi đều vạ vật những người “xanh xám như những bóng ma và nằm ngổn ngang khắp lều chợ (...) Không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người” thì một người như Tràng đến nuôi thân còn chẳng lo nổi lại còn mẹ già, nói chi đến chuyện đèo bòng. Bằng ấy cái vô lý và không thể nhưng sự kiện chấn động ấy vẫn cứ diễn ra. Khi Tràng dẫn người đàn bà lạ về nhà, cả xóm ngụ cư đều ngơ ngác không hiểu. Chưa thể nào tin được đó là vợ Tràng họ bắt đầu phỏng đoán:

Ai đấy nhỉ?... Hay là người nhà dưới quê bà cụ Tứ mới lên?

- Chả phải, từ ngày còn mồ ma ông cụ Tứ có thấy họ mạc nào lên thăm đâu.

- Quái nhỉ?

Im một lúc, có người bỗng lại cười lên rung rúc.

- Hay là vợ anh cu Tràng? ừ khéo mà vợ anh cu Tràng thật anh em ạ, trông chị ta thèn thẹn hay đáo để”.

     Hạnh phúc của đồng loại tạm làm người ta quên đi cái đói khổ trong giây lát. “Hình như họ hiểu được đôi phần. Những khuôn mặt hốc hác u tối của họ bỗng dưng rạng rỡ hẳn lên. Có cái gì lạ lùng và tươi mát thổi vào cuộc sống đói khát, tối tăm ấy của họ”. Nhưng rồi ngay sau đó lại là nỗi lo lắng. “Ôi chao! Giời đất này còn rước cái của nợ đời về. Biết có nuôi nổi nhau sống qua được cái thì này không?”.

     Từ đây, Kim Lân kéo người đọc về với tình huống trước đó như một lời lý giải cho việc nhặt được vợ của Tràng, một tình huống cũng thú vị không kém. Tràng nhặt được vợ chỉ nhờ vào câu hát vu vơ khi đẩy xe bò cho đỡ mệt nhọc:

“Muốn ăn cơm trắng với giò này

Lại đây mà đẩy xe bò với anh nì”

     Cái đói khổ làm cho người ta mất hết cả sự xấu hổ và lòng tự trọng. Người đàn bà đã chớp lấy câu nói của Tràng như cái phao cứu sinh cho cuộc đời mình. Lần thứ hai gặp lại thì “xưng xỉa”: “Hôm ấy leo lẻo cái mồm hẹn xuống thế mà mất mặt”, rồi không ngần ngại ngồi xuống làm một chập hết bốn bát bánh đúc. Thế là nên vợ nên chồng.

     Có thể nói đây là một tình huống hết sức oái oăm, không biết nên vui hay nên buồn, không biết nên mừng hay nên lo? Thứ tâm trạng đan xen ấy hiện lên trong suy nghĩ đầy mâu thuẫn của những người trong cuộc. Tràng “mới đầu cũng chợn nghĩ: thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không lại còn đèo bòng”. Nhưng rồi hắn cũng tặc lưỡi. Cảm giác ấy cùng với những tình cảm mới lạ đan xen khiến Tràng giống như một đứa trẻ. Khác với Tràng, bà cụ Tứ là một người từng trải, nhìn thấy con trai về cùng với người đàn bà lạ mặt “lòng người mẹ nghèo khổ ấy hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán, vừa xót thương cho số kiếp đứa con mình”. Bà hiểu cả tình cảnh bất hạnh của người đàn bà, cũng như tình cảnh khó khăn sắp tới của cả gia đình. Nỗi lo lắng cùng với niềm hy vọng đan xen, “May ra mà qua khỏi được cái tao đoạn này thì thằng con bà cũng có vợ, nó yên bề nó, chẳng may ra ông giời bắt chết cũng phải chịu chứ biết thế nào mà lo hết được?”. Bản thân người đàn bà, sau những phút giây chao chát chỏng lỏn để có được miếng ăn, theo không người ta về nhà, chắc chắn giờ đây cũng suy nghĩ mông lung nhiều lắm. Thị trở về với dáng vẻ ngượng ngùng, bẽn lẽn, e thẹn “cúi mặt xuống, tay vân vê tà áo đã rách bợt”.

     Đặt nhân vật vào trong tình huống đặc biệt, éo le như vậy, Kim Lân đã làm nổi bật những ý nghĩa sâu sắc của truyện. Không cần đến những lời kết tội to tát câu chuyện thông qua tình huống nụ cười và giọt nước mắt đan xen ấy mà lên án gay gắt bọn phát xít thực dân phong kiến và tay sai đã gây ra nạn đói năm 1945, đẩy con người đến cái chết, dẫn đến những tình huống éo le, cùng cực, làm cho giá trị con người bị rẻ rúng: người ta có thể nhặt được vợ chỉ với bốn bát bánh đúc.

     Tình huống ấy cũng chính là môi trường cho nhân vật bộc lộ đặc điểm tính cách cũng như đời sống tinh thần của mình. Tràng tỏ ra là một anh thanh niên chất phác, hiền lành, chăm chỉ làm ăn và có đời sống nội tâm có phần hơi đơn giản. Bà cụ Tứ mang trong mình sự từng trải, nghĩ trước sau chu toàn. Tràng “nhặt” được vợ, bà vừa mừng vừa lo. Bà hiểu cái tao đoạn mà bà và những người xung quanh đang phải trải qua, hiểu vị trí của những người dân ngụ cư trong quan niệm của người khác, hiểu được tình thế oái oăm, đèo bòng của con trai mình. Hơn thế nữa, bà cũng hiểu và cảm thông cho hành động theo không của người đàn bà “Người ta có gặp lúc khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình”. Ngày đầu tiên của cuộc sống mới, cũng chính bà là người gợi ra tương lai tươi sáng, gieo vào trong lòng đôi vợ chồng trẻ niềm hy vọng. Còn ở cô “vợ nhặt” thì tính cách có sự thay đổi đến bất ngờ: từ một người đàn bà chao chát, chỏng lỏn, chị khác hẳn trong tư cách một người vợ, một người quen, dịu dàng, biết thu vén cho cuộc sống gia đình.

     Thông qua tình huống truyện đặc sắc Kim Lân cũng muốn thể hiện khát vọng của con người có thể chiến thắng hoàn cảnh để sống và có được hạnh phúc. Người lao động, dù trong tình huống bi thảm đến đâu, ngay cả khi gần kề cái chết vẫn khát khao hướng về ánh sáng, tin tưởng ở sự sống và tương lai. Giá trị nhân văn của tác phẩm là ở đó. Cầu chuyện kết thúc với những ánh sáng báo hiệu điều gì đó tốt đẹp hơn đang đến. Tràng “bỗng vừa chợt nhận ra, xung quanh mình có cái gì vừa thay đổi mới mẻ, khác lạ...” và anh bắt đầu hi vọng: “Hắn đã có một gia đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm che mưa che nắng. Một nguồn vui sướng, phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng. Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này “. Người mẹ già cũng “nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường”, cái mặt bủng beo u ám “rạng rỡ hẳn lên”. Và tất nhiên, nhiều nhất phải nói tới sự thay đổi của người “vợ nhặt”, giờ đây đã trong vai trò của một người vợ hiền đảm đang. Hình ảnh đám người đi phá kho thóc cứ gieo vào trong lòng Tràng đầy ám ảnh như dự báo một cuộc cách mạng không sớm thì muộn cũng sẽ tất yếu xảy ra.

     Xây dựng tình huống đặc sắc trong “Vợ nhặt”, Kim Lân đã một lần nữa chứng minh cái tâm, cái tài của mình với tư cách là một nhà văn một đời đi về với “đất”, với “người”, với “thuần hậu nguyên thủy” của cuộc sống nông thôn.

     “Vợ nhặt” là một truyện ngắn độc đáo trong nghệ thuật xây dựng tình huống. Chính điều này đã góp phần vào việc thể hiện chủ đề, tư tưởng cũng như tăng tính hấp dẫn trong tác phẩm.

QT
Quoc Tran Anh Le
Giáo viên
27 tháng 8 2023

- Nội dung đặc sắc của tác phẩm: Thể hiện con người của Thúy Kiều thấu tình đạt lí, quyết liệt lấy lại phẩm giá, quyền sống cho mình. Đồng thời thể hiện sự ngang tàng, chính trực bên ngoài và nồng nàn yêu thương bên trong của Từ Hải. Để lại sự nuối tiếc, đau xót với khung cảnh chàng trai Từ Hải chết. 

- Nghệ thuật đặc sắc: Thể hiện rõ được biến đổi tâm lí phức tạp của Kiều, lối nói vần điệu ngôn từ truyền thống.

- Nhận xét của tác giả về tác phẩm: 

+ Ưu điểm: Có sự lồng ghép tự nhiên câu nói, câu thơ, giản lược một số điển cố điển tích nhằm dễ nghe, dễ hiểu và đi sâu vào lòng mọi người hơn mà không đánh mất đi hồn cốt của tác phẩm. 

+ Hạn chế: Chưa có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa âm nhạc và vũ đạo. Vũ đạo hơi nhiều hơn so với mức cần thiết, chưa thực sự mạnh dạn đẩy đến mức phá cách để tạo ấn tượng đậm sâu hơn là những khung cảnh quen thuộc trong tác phẩm.

4 tháng 10 2024

Tố Hữu là cây đại thụ trong làng thơ ca cách mạng Việt Nam và cũng là một nhà thơ lớn của dân tộc với nhiều đóng góp cho nền văn học nước nhà. Cuộc đời và sự nghiệp ông như gắn liền, hòa quyện với thi ca, mỗi tập thơ ông cho ra đời đều gắn liền với một giai đoạn lịch sử đầy máu lửa của dân tộc. Những tập thơ tiêu biểu có thể kể đến như “Từ ấy”, “Việt Bắc” hay “Máu và Hoa” hay “Gió lộng”, chúng đều viết về cuộc cách mạng và chứa đựng tình yêu của người thi sĩ dành cho quê hương và con người Việt Nam. Trong đó, bài thơ “Tiếng chổi tre” sáng tác năm 1981 trong tập thơ “Gió lộng” mang nhiều giá trị to lớn nhờ vào nét đặc sắc trong nội dung và nghệ thuật của nó:...

Xem thêm: https://toploigiai.vn/nghi-luan-phan-tich-danh-gia-net-dac-sac-ve-noi-dung-va-nghe-thuat-cua-bai-tho-tieng-choi-tre

 

1) Tổng quan ngắn gọn (mood chung) Vợ nhặt dựng nên một bức tranh đời khắc nghiệt giữa nạn đói; nghệ thuật kể chuyện vừa hiện thực, vừa giàu cảm thông. Tác phẩm khai thác chi tiết đời sống, giọng điệu vừa trào phúng vừa xót xa, để từ một sự kiện nhỏ (một “vợ nhặt”) phản chiếu bi kịch và phẩm giá con người thời khó. 2) Không gian (không gian vật lý — xã hội — nội tâm) Không gian vật lý: làng quê nghèo, nhà Tràng chật chội, bếp lửa lèo tèo — tất cả được miêu tả qua những chi tiết tầm thường (cái bát, túi thóc, căn nhà rách…), tạo cảm giác thiếu thốn, cằn cỗi. Những chi tiết “nhỏ” này gợi đói, gợi khát — làm cho cái chung (nạn đói) trở nên cụ thể. Không gian xã hội: làng xóm, chợ búa, mối quan hệ hàng xóm láng giềng — nơi diễn ra các tương tác xã hội: thái độ thờ ơ, lòng trắc ẩn, niềm hy vọng vụt sáng. Không gian xã hội cho thấy cấu trúc bất công và các phản ứng con người trước khốn khó. Không gian nội tâm: qua hành động và lời nói nhân vật (nhất là Tràng và mẹ Tràng), không gian nội tâm được mở ra: từ hoài nghi, xấu hổ đến niềm mong manh của hạnh phúc. Nghệ thuật miêu tả nội tâm thường ẩn trong hành động đời thường (ví dụ cái cách họ lo bát cơm, nhìn nhau). Tác dụng nghệ thuật: Không gian chi tiết + đối lập (nhỏ bé — bi kịch rộng lớn) làm nổi bật tính nhân đạo và tính biểu tượng của sự kiện. 3) Thời gian (thời gian kể — thời gian lịch sử — nhịp điệu) Thời gian lịch sử: bối cảnh nạn đói (thời kỳ khủng hoảng) — cái “thời” quyết định hoàn cảnh sống của nhân vật, làm tăng sức nặng xã hội của câu chuyện. Thời gian trong truyện: cốt truyện diễn ra trong khoảng thời gian khá ngắn (gặp gỡ — về nhà — bữa cơm — phản ứng của mẹ làng), nhưng lời kể có “giãn” — xen vào đó là những đoạn suy nghĩ, bình luận mở rộng ra thành sự khái quát về xã hội và tương lai. Nghệ thuật ở chỗ: từ khoảnh khắc ngắn, nhà văn nén vào cả lịch sử và dự cảm. Nhịp điệu kể: xen kẽ nhanh (mô tả hành động cụ thể) và chậm (đoạn bình luận, mô tả tâm trạng) — làm tăng hiệu quả cảm xúc: có lúc dồn, có lúc dừng để suy ngẫm. 4) Điểm nhìn (focalization — ngôi kể) Ngôi kể: chủ yếu là ngôi thứ ba — người kể bao quát, biết rõ sự kiện và cả nội tâm nhân vật. Đây là lựa chọn giúp vừa tả thực vừa bình luận. Đặc điểm điểm nhìn: Bao quát, toàn tri một phần — người kể biết nhiều, nên có thể khái quát hiện tượng xã hội; Chuyển đổi cận cảnh — đôi khi điểm nhìn nghiêng về Tràng, mẹ Tràng hoặc quần chúng làng xóm (thể hiện bằng cách lột tả tâm trạng, phản ứng cụ thể) — chính vì thế độc giả vừa nhìn thấy sự kiện ở tầm xã hội vừa “cảm” được nội tâm. Focalization chủ quan-hòa trộn với khách quan: nhiều chỗ lời kể dẫn học giả vào suy nghĩ của nhân vật (tức dùng phối cảnh chủ quan), nhưng lại quay ra bình luận khách quan, làm tăng chiều sâu nghệ thuật. Tác dụng: Điểm nhìn đa mức cho phép nhà văn vừa mô tả thực trạng xã hội, vừa đặt câu hỏi đạo đức, vừa khắc họa nhân phẩm con người trong hoàn cảnh cùng cực. 5) Lời kể — giọng điệu, ngôn ngữ, thủ pháp Giọng điệu: pha trộn trào phúng — trần thuật — cảm thương. Người kể không chỉ mô tả mà còn có những câu bình luận mang tính xã hội học, gia tăng tác dụng phê phán. Ngôn ngữ: Bình dân, gần gũi: nhiều câu thoại, từ ngữ đời thường, thành ngữ, cách nói của nông dân — tạo tính hiện thực và thân mật. Hình ảnh sinh động, cụ thể: chi tiết tả thực (bát cơm, quả trứng, túi thóc) được dùng như biểu tượng. Thủ pháp liệt kê, điệp khúc: dùng để nhấn mạnh sự thiếu thốn, lặp lại làm tăng nhịp và cảm xúc. Ẩn dụ/nhân hóa: để cảm hóa, làm cho “đói” như một nhân vật, hoặc để tôn vinh phẩm giá nhỏ bé của con người. Lời kể và cảm xúc: lời kể vừa giữ khoảng cách (nhìn vấn đề ở tầm lớn) vừa nhập cuộc (cảm thông sâu sắc). Kết hợp này khiến người đọc vừa bị lay động vừa phải suy ngẫm. 6) Ứng dụng khi làm bài (ghi điểm thi) Nhận xét tổng hợp (câu mở): “Vợ nhặt sử dụng nghệ thuật kể chuyện tinh tế: không gian tả thực, thời gian cô đọng nhưng mở rộng ý nghĩa, điểm nhìn linh hoạt và một giọng kể vừa trào phúng vừa cảm thông, giúp phản ánh bi kịch xã hội đồng thời tôn vinh phẩm giá con người.” Dẫn chứng: chọn 2–3 đoạn — (1) đoạn miêu tả cảnh đói/đồ ăn, (2) đoạn mô tả tâm trạng mẹ Tràng, (3) đoạn bình luận của người kể mở rộng ra xã hội. Phân tích chi tiết cách ngôn ngữ + hình ảnh + điểm nhìn vận hành. Kết luận: nhấn mạnh ý nghĩa nhân đạo và giá trị hiện thực của tác phẩm. 7) Một vài câu hỏi ôn luyện Phân tích cách tác giả sử dụng không gian để làm nổi bật nạn đói và phẩm giá con người. Chứng minh lời kể trong Vợ nhặt có giọng trào phúng nhưng đầy cảm thông. So sánh điểm nhìn trong Vợ nhặt với một truyện khác (ví dụ: Lão Hạc — nếu bạn biết) về cách mở rộng ý nghĩa xã hội.

11 tháng 9

viết thế không ổn đâu