Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

I . Tác giả
- Phạm Văn Đồng ( 1906 - 2000 ) quê ở xã Đức Tôn, Huyện Mộ Đức, tĩnh Quãng Ngãi.
- Ông tham gia cách mạng năm 1925 và từng giữ nhiều cương vị quan trọng trong bộ máy nhà nước, làm thủ tướng chính phủ hơn 30 năm.
- Là người học trò gần gũi và là người cộng sự của Bác.
- Là nhà cách mạng nổi tiếng và là nhà văn hóa lớn
2. Tác phẩm
- Được trích từ bài : " Chủ tịch HCM tinh hoa và khí phách của dân tộc, lương tâm của thời đại " , trích từ bài diễn văn trong lễ kỉ niệm 80 năm ngày sinh của Bác năm 1980

Câu 2,Quê hương em rất thanh bình và yên tĩnh,có những cánh đồng thẳng cánh cò bay chạy theo những con đươngd làng quanh co. Những buổi sáng mùa xuân đứng ở đầu làng mà nhìn cánh đồng thì thích thú biết bao! Gió xuân nhẹ thổi sóng lúa nhấp nhô từng đợt đuổi nhau ra xa tít. Một đàn cò trắng dang rộng đôi cánh bay qua, nổi bật trên nền trời xanh thẳm. Đầu làng có con sông nước xanh ngắt, trong lành. Vào những buổi dân làng đi làm cỏ, cánh đồng rộn lên những câu hò, câu hát vang trời. Gần cánh đồng có cây đa to để mọi người ngồi nghỉ sau những buổi lao động mệt nhọc. Mùa lúa chín, trong biển lúa vàng ánh lên màu đen nhánh của những cái liềm của người dân đi gặt. Rải rác khắp cánh đồng là những chiếc nón trắng của người đi gặt nhấp nhô lên xuống.
- Những từ đồng nghĩa là: thanh bình và yên tĩnh; xanh thẳm và xanh ngắt.
- Những từ trái nghĩa là: thẳng >< quanh co; đứng >< ngồi; trắng >< đen; gần >< xa; lên >< xuống.

a. Đoạn văn sử dụng phương thức nghị luận (có kết hợp biểu cảm)
b. Phép lập luận được sử dụng là phân tích.
c. Phương pháp lập luận: Tác giả dùng lí lẽ và đưa ra những dẫn chứng cụ thể, xác thực để tạo nên sự lay động trong tâm thức người đọc.
d. Thông điệp mà người viết muốn gửi đến người đọc là: Hãy hiếu thảo với cha mẹ.

Một trong những điểm tham quan nổi tiếng và thu hút rất đông khách du lịch trong và ngoài nước mỗi khi có dịp đến thăm thành phố Long Xuyên là ngôi nhà lưu niệm thời niên thiếu của Chủ tịch Tôn Đức Thắng tọa lạc ở ấp Mỹ An, xã Mỹ Hòa Hưng (Cù lao Ông Hổ, thuộc thành phố Long Xuyên).
Ngôi nhà này do song thân của Bác Tôn xây dựng vào năm 1887. Sau, được người em trai thứ tư của Bác là Tôn Đức Nhung có sửa chữa một lần vào năm 1932 (nhưng vẫn giữ y theo lối kiến trúc hình chữ Quốc (nho), mái lợp ngói ống, sàn lót ván, ngang 12 mét, dài 13 mét, rộng hơn 150m2. Bên trong, ngôi nhà vẫn còn lưu giữ hai bức ảnh bán thân song thân Bác là ông Tôn Văn Đề và bà Nguyễn Thị Dị, một tấm ảnh Bác Tôn chụp năm 18 tuổi, và một ảnh chụp tại chiến khu Việt Bắc lúc Bác làm Chủ tịch Mặt trận Liên Việt, gửi về gia đình có chữ ký với dòng chữ ở phía sau “Kính biếu mẹ già và mấy em. Ngày 24 tháng 7 năm 1951”.
Ngôi nhà cho đến nay không chỉ được bảo tồn tốt mà, trên khu đất rộng 6,7ha ấy được tôn tạo và xây mới thêm nhiều công trình rất hoành tráng như Đền thờ, Nhà trưng bày hình ảnh và hiện vật về thân thế, sự nghiệp của Bác, công viên đầy ắp hoa kiểng, vườn cây ăn trái, nhiều công trình điêu khắc nghệ thuật, mà phần lớn là tượng tròn với những chất liệu khác nhau như xi măng, đá, gỗ…, trong đó đồ sộ và uy nghiêm nhất là Đền thờ Bác, kiến trúc cổ lầu tam cấp, rộng đến 1.600 m2.
Bộ Văn hóa có quyết định số 114 ngày 30/8/1984 công nhận ngôi nhà ở ấp Mỹ An, xã Mỹ Hòa Hưng – nơi Bác Tôn sinh sống thời niên thiếu, là di tích lịch sử lưu niệm thời niên thiếu của Chủ tịch Tôn Đức Thắng. Sau đó, ngày 15/9/1984 Bộ Văn hóa cũng đã ra quyết định công nhận di tích lịch sử cấp quốc gia do Quyết định số 666/VH.QĐ. Và mới đây, ngày 17/07/2012 vừa qua, cũng trên Cù lao Ông Hổ này, Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang đã long trọng tổ chức theo nghi thức Nhà nước lễ công bố Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về việc xếp hạng Khu lưu niệm Chủ tịch Tôn Đức Thắng là di tích cấp Quốc gia đặc biệt. Đây là 1 trong số 23 di tích Quốc gia đặc biệt của Việt Nam có ý nghĩa chính trị rất lớn, không chỉ để nhằm tưởng nhớ công lao to lớn của Bác Tôn trong sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước sau khi thống nhất, mà còn là dịp để người dân An Giang cũng như cả nước học tập tấm gương đạo đức sáng ngời của Bác Tôn, tự hào về lịch sử truyền thống hào hùng của dân tộc.
Trước sự kiện đầy ý nghĩa này, và nhân kỷ niệm 125 năm ngày sinh Chủ tịch Tôn Đức Thắng (1888 – 2013), xin ghi lại những dấu ấn đáng nhớ trong cuộc đời hoạt động của Người.
– Ngày 20/8/1888: Tại Cù lao Ông Hổ (xã Mỹ Hoà Hưng, tổng Định Thành, tỉnh Long Xuyên – nay là xã Mỹ Hoà Hưng, TP. Long Xuyên, tỉnh An Giang) ông Tôn Văn Đề và bà Nguyễn Thị Dị sinh được cậu con trai đầu lòng, đặt tên là Tôn Đức Thắng, tức Bác Tôn.
– 1906: Sau khi đã học xong bậc tiểu học ở Long Xuyên, 18 tuổi, anh Hai Thắng lên Sài Gòn học làm thợ máy tại École des Mécaniciens Asiatiques de Sài Gòn (Trường của những người thợ máy Châu Á ở Sài Gòn), là trung tâm duy nhất đào tạo thợ máy tàu thuỷ của Pháp ở Đông Dương. Sau khi tốt nghiệp anh Hai Thắng vào làm việc tại xưởng Arsenal de Sài Gòn tức xưởng Ba Son, chuyên sửa chữa chân vịt tàu tại phân xưởng cơ khí – trọng tâm của Ba Son.
– 1910: Vào làm thợ máy trong xưởng Kơ-rốp thuộc Sở Kiến trúc cầu đường và nhà cửa ở Sài Gòn.
– 1912: Lãnh đạo cuộc bãi công của công nhân Ba Son, và vận động học sinh trường Bách nghệ Sài Gòn bãi khoá. Cuộc bãi công nêu cao yêu sách:
1) Tăng lương đồng loạt 20%.
2) Gọi những người bị sa thải trở lại làm việc.
3) Giữ nguyên lệ cũ: Công nhân được nghỉ 30 phút trước khi lĩnh lương vào ngày đầu tháng thay vì chỉ 15 phút. Cuộc bãi công kéo dài nhiều ngày mà không ảnh hưởng gì đến đời sống công nhân, vì anh Hai Thắng đã vận động và được công nhân các xưởng khác đoàn kết ủng hộ tiền, gạo giúp đỡ gia đình công nhân trong suốt thời gian bãi công, nên cuối cùng bọn chủ Pháp phải nhượng bộ, chấp nhận các yêu sách. Công nhân trở lại làm việc với thái độ cầm chừng vì họ chỉ tăng lương 10%.
– Cuối 1912: Anh Hai Thắng vận động toàn thể công nhân xưởng Ba Son bãi công, đồng thời vận động học sinh trường Bách nghệ Sài Gòn bãi khoá. Cuộc đấu tranh đầu tiên đó của giai cấp công nhân đã giành được thắng lợi, và biểu lộ sức mạnh của lực lượng xã hội mới. Chính vì vậy nên chính quyền thực dân Pháp mở chiến dịch tìm bắt những người lãnh đạo cuộc bãi công. Anh Hai Thắng buộc phải trốn tránh, cải trang và thay đổi tên khác, xin vào làm cho công ty tàu biển chạy trên Đại Tây Dương. Thế là, trên chiếc tàu mang tên La Coóc, anh đã ra nước ngoài sang Pháp.
– 1913: Làm công nhân quân giới tại xưởng Arsenal de Toulon – quân cảng ở miền Nam nước Pháp.
– Ngày 9/10/1916: Người thợ máy Tôn Đức Thắng nhận lệnh phục vụ trên chiến hạm Paris của Pháp (nhiều tài liệu khác ghi là chiến hạm France hoặc Waldeck Rousseau – đây ghi theo lời kể của Bác Tôn).
– Ngày 16/4/1919: Mặc dù chiến tranh thế giới đã kết thúc, chính phủ Pháp vẫn điều động một hạm đội gồm 5 chiến hạm tiến vào biển Đen để tấn công nước Nga Xô Viết. Hơn ai hết, anh Hai Thắng hiểu rằng: “Chống lại Cách mạng tháng Mười có nghĩa là chống lại những lợi ích cơ bản của dân tộc mình, giai cấp mình, và những người thân yêu mình”, do đó anh đã cùng những người có tư tưởng phản chiến quyết định “làm binh biến” ngay trên tàu.
– Ngày 20/4/1919: Lúc 8 giờ sáng, anh Hai Thắng – người thợ máy Việt Nam duy nhất trên chiến hạm đó – đã dũng cảm nhận lãnh và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ kéo lá cờ đỏ trên cột cờ của chiến hạm để nhằm biểu thị sự đoàn kết với Cách mạng tháng Mười Nga mà anh đã từng nghe biết và có cảm tình từ lâu. Cuộc binh biến thành công. Thế là vòng vây của đế quốc Pháp đối với đất nước Nga Xô Viết đã bị phá bung. Dưới áp lực của những người phản chiến, tất cả các tàu chiến khác của hạm đội, theo lệnh bọn chỉ huy đều phải quay trở về. Tất nhiên chúng đã “lấy danh dự” hứa với họ là về Pháp sẽ không trả thù bất cứ ai. Nhưng họ đã nuốt lời! Chúng bắt hàng loạt binh sĩ, công nhân có tham gia phản chiến trên tàu, đưa Toà án quân sự xét xử. Anh Hai Thắng may mắn trốn thoát đi thẳng đến Paris, với giấy tờ giả mạo, anh xin vào làm việc ở nhà máy Rơ-nô, để rồi sau đó, cuối năm 1919 anh tìm cách rời khỏi nước Pháp an toàn.
– 1920: Trở về Sài Gòn, làm công nhân cho hãng KROF và CIE. Anh Hai Thắng vận động thành lập Công hội bí mật tại cảng Sài Gòn, rồi phát triển trong công nhân Ba Son, FACI, nhà đèn Sài Gòn, nhà đèn Chợ Quán và một số cơ sở khác trong thành phố. Đó là những công hội đầu tiên của giai cấp công nhân Việt Nam (để sau đó, 1927, giai cấp này được phát triển vào tổ chức “Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí hội” – Bác Tôn đã bắt liên lạc được với những học trò của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc tức Bác Hồ, thông qua tổ chức này). Như vậy Bác Tôn và các bạn công nhân của Bác là lớp người đầu tiên tuyên truyền chủ nghĩa Mác – Lê Nin trong giai cấp công nhân Việt Nam, và tham gia hoạt động tích cực trong quá trình vận động thành lập chính đảng của giai cấp vô sản Việt Nam.
– Tháng 12/1920: Đại hội lần thứ 18 Đảng Xã hội Pháp họp ở Tua (có Nguyễn Ái Quốc tham dự, và Người đã cùng với những chiến sĩ cách mạng Pháp bỏ phiếu cho Đảng tham gia “Quốc tế thứ 3”). Đại hội dành vinh dự lớn cho “Những người tham gia nổi dậy ở Biển Đen” làm Chủ tịch vinh dự của Đại hội, trong đó có người công nhân Việt Nam Tôn Đức Thắng của chúng ta – Bác Tôn, đã góp phần “nhỏ bé” của mình vào chiến công chung rất vẻ vang này.
– Ngày 4/8/1925: Bác Tôn lãnh đạo công nhân Ba Son tổ chức cuộc đình công để trì hoãn việc sửa chữa chiến hạm Guyn-lơ Mi-sơ-lê (Jules Michelet) mà người Pháp dùng nó để chở lính sang Trung Quốc đàn áp phong trào cách mạng ở đó (do vậy đến 28/11/1925 tàu mới sửa xong, tức phải nằm ở xưởng Ba Son hơn ba tháng rưởi). Lại một lần nữa Bác Tôn đã thể hiện rất cao tinh thần quốc tế vô sản.
– Giữa năm 1927: Bác Tôn được bầu vào Ban chấp hành Kỳ bộ Nam kỳ của Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội với chức vụ Ủy viên Ban chấp hành kỳ bộ Nam kỳ. Bác Tôn được phân công trực tiếp lãnh đạo phong trào công nhân Sài Gòn – Chợ Lớn.
– Tháng 12/1928: Trong quá trình hoạt động cách mạng và vận động thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, Bác Tôn bị thực dân Pháp bắt ở Sài Gòn.
– Ngày 26/7/1929: Hội đồng đề hình thành phố Sài Gòn đã đưa ra xét xử Bác và nhiều người khác. Chúng tuyên án Tôn Đức Thắng 20 năm khổ sai.
– Đêm 2/7/1930: Con tàu Harmand Rousseau chở Bác Tôn và những người tù từ Khám lớn Sài Gòn, rời cảng Nhà Rồng đày đi Côn Đảo. Pháp ghi Bác Tôn là “phần tử nguy hiểm”. Số tù của Bác: 5289.20 TF (TF: Viết tắt của Traveaux Forcés, có nghĩa lao dịch khổ sai có thời hạn). Tại Côn Đảo, Bác bị giam ở khám 9, banh I (bagne).
– 1932: Với mục đích biến nhà tù thành trường học Cộng sản của mình, Bác Tôn và một số đồng chí thành lập Chi bộ Đảng nhà tù (ông Nguyễn Hới làm Bí thư, Bác Tôn và một số đồng chí khác làm uỷ viên). Để tiện thông tin, giáo dục, Chi bộ quyết định cho ra đời tờ báo viết tay lấy tên là Ý kiến chung. “Toà soạn” đặt tại khám 9, banh I, tức nơi giam Bác Tôn. Rồi sau đó ra thêm tờ Tiến lên, mỗi kỳ ra 30 bản, mỗi bản 30 trang, khổ nhỏ cở bloc lịch, khoảng 1/6 hay 1/4 giấy học trò.
Hoạt động của Bác bị kẻ thù phát hiện (dùng cán chổi dộng vào tường để liên lạc với những người tù chính trị ở banh II), nên chúng chuyển nhốt Bác ở xà lim số 15, phạt Bác phải ăn cơm nhạt 2 tuần, rồi tống giam vào hầm xay lúa, nơi được xem là “địa ngục của địa ngục”. Hết hạn khổ sai ở hầm xay lúa, chúng chuyển Bác trở về khám 9, banh I.
– 1934: Bác Tôn được ra làm ở Sở lưới.
– Ngày 23/9/1945: Bác và khoảng gần 1.500 người tù khác bị giam giữ ở nhà tù Côn Đảo được Uỷ ban nhân dân cách mạng lâm thời Nam Bộ cử một phái đoàn đưa tàu ra đón về đất liền. Ngay trong ngày “Nam Bộ kháng chiến” (chống giặc Pháp trở lại xâm lược Sài Gòn). 23/9 Bác Tôn được bổ sung vào Xứ uỷ và phân công phụ trách Ủy ban kháng...

ca dao: muốn sang thì bắc cầu kiều
muốn con hay chữ thì yêu lấy thầy
tục ngữ:không thầy đố mày làm nên
theo mik chon câu tục ngữ trên thì phù hợp vs nội dung MB của bn hơn
TL:
Phạm Văn Đồng
Ngày sinh: 01/03/1906
Ngày Mất: 29/04/2000
Quê quán: Đức Tân, Mộ Đức, Quảng Ngãi
Ông là học tròn và là công sự gần gũi của Hồ Chí Minh
Chúc bạn học tốt
@tienloc
<_>
*-*
Phạm Văn Đồng:
Ngày/nơi sinh: 1 tháng 3, 1906
Ngày mất: 29 tháng 4, 2000
Quê quán:Đức Tân, Mộ Đức, Quảng Ngãi.
Ông là học trò và là cộng sự gần gũi của Hồ Chí Minh
HT