Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

Câu 1. Đoạn trích chia thành bốn phần.
- Các tiêu đề có thể là: “Nỗi tuyệt vọng của Xi-mông”, “Xi-mông gặp bác Phi-líp”, “Bác Phi-lip đưa Xi-mông về nhà”, “Ngày hôm sau ở trường”.
- Trong bài văn này có ba nhân vật có tên, đó là em bé Xi-mông, mẹ em là Blăng-sốt, và bác Phi-líp. Ngoài ra còn có những nhân vật nhà văn không đặt tên là các bạn của Xi-mông và thầy giáo. Thầy cá trò sẽ theo dõi các nhân vật chính, có thể lần lượt từ Xi-mông, rồi đến Blăng-sốt và cuối cùng là Phi-líp.
Câu 2.
+ Nhân vật Xi-mông.
- Trong bài này không có chi tiết nào nói về tuổi tác, dáng dấp của Xi-mông, nhưng ở một đoạn khác của truyện, tác giả cho biết: “Nó độ bảy, tám tuổi. Nó hơi xanh xao, rất sạch sẽ, vẻ nhút nhát, gần như vụng dại”. Dáng dấp ấy phần nào thể hiện hoàn cảnh đau đớn của em. Em ang tiếng là đứa trẻ không có bố và thường bị các bạn bè trêu chọc.
- Nỗi đau đớn bộc lộ qua ý nghĩ và hành động của em. Em bỏ nhà ra bờ sông, định nhảy xuống sông cho chết đuối vì không có bố. May mà cảnh vật thiên nhiên (trời ấm dễ chịu, ánh nắng êm đềm, trên mặt cỏ, chú nhái con làm em nghĩ tới một thứ đồ chơi…) khiến em nghĩ đến nhà, nghĩ đến mẹ.
- Nỗi đau thể hiện ở những giọt nước mắt của em. Em khóc. Nhà văn nhiều lần kể chuyện em khóc: “cảm giác uể oải thường theo sau khi khóc lóc…”, “… và thấy buồn bã vô cùng, em lại khóc, người em rung lên”, “những cơn nức nở lại kéo đến”, “em chẳng nhìn thấy gì quanh em nữa và em chỉ khóc hoài”, “em trả lời, mắt đậm lệ, giọng đầy nước mắt”, “ôm lấy cổ mẹ và em lại khóc”.
- Nỗi đau đớn còn biểu hiện ở cách nói năng của em. Nhà văn diễn tả em nói không nên lời, cứ bị ngắt quãng, thể hiện trong bài bằng những dấu chấm lửng “…” hoặc lặp đi lặp lại. Ví dụ: “Chúng nó đánh cháu … vì … cháu … cháu … không có bố … không có bố”.
+ Nhân vật Blăng-sốt.
- Nhân vật Blăng-sốt là cô gái một thời lầm lỡ khiến cho Xi-mông trở thành đứa con không có bố. Nhưng thực ra chỉ là người phụ nữ đức hạnh, chẳng qua bị lừa dối, chị từng là “một trong những cô gái đẹp nhất vùng”.
- Bản chất của chị được nhà văn chú ý thể hiện qua hình ảnh ngôi nhà chị: “Một ngôi nhà nhỏ, quét vôi trắng, hết sức sạch sẽ”. Điều đó nói lên rằng tuy nghèo nhưng sống đúng đắn, nghiêm túc.
Bản chất của chị bộc lộ qua thái độ của chị đối khách. Phi-líp là một người lạ, chị chưa gặp bao giờ. Phi-líp thấy chị, “Bỗng tắt nụ cười, vì bác hiểu ra ngay là không còn bỡn cợt được nữa với cô gái cao lớn, xanh xao, đứng nghiêm nghị trước cửa nhà mình, như muốn cấm đàn ông bước qua ngưỡng cửa…”.
Bản chất tốt còn bộc lộ ở nỗi lòng của chị khi con nói bị bạn đánh vì không có bố: “Đôi má thiếu phụ đỏ bừng, và tê tái đến tận xương tủy… nước mắt lã chã tuôn rơi”. Khi nghe con hỏi Phi-líp: “Bác có muốn làm bố cháu không” thì chị “lặng ngắt và quằn quại vì hổ thẹn, dựa người vào tường, hai tay ôm ngực”.
Câu 4. Nhân vật Phi-líp.
- Phi-líp là một người thợ cao lớn, râu tóc đen, quăn vẻ mặt nhân hậu. Mới đầu, gặp Xi-mông, bác rất thương em.
Đến khi đưa Xi-mông về nhà, Phi-líp nghĩ bụng có thể đùa cợt với chị Blăng-sốt, “nghe đồn chị là một trong những cô gái đẹp nhất vùng” và “ tự nhủ thầm rằng một tuổi xuân đã lầm lỡ, rất có thể lỡ lầm lần nữa”.
Khi gặp chị Blăng-sốt, ý nghĩ kia không còn nữa. Bác hiểu ra chị là người tốt, nên không thể đùa giỡn với chiij được nữa.
Cuối cùng, khi đối đáp với Xi-mông, phần vì thương Xi-mông, phần vì cảm mến Blăng-sốt, bác nói nửa như thật, nửa như đùa là bác vui lòng làm bố của Xi-mông.
- Tâm trạng của Xi-mông diễn biến từ buồn đến vui, tâm trạng của Blăng-sốt từ ngượng ngùng đến đau khổ, rồi quằn quại hổ thẹn. Trong bài này, nhà văn chú ý nhiều hơn đến diễn biến tâm trạng của bác thợ rèn Phi-líp.
Bác thợ Phi-líp là người có lòng nhân hậu. Bác thương Xi-mông, bác cứu Xi-mông khỏi cái chết. Bác vui lòng nhận làm bố của Xi-mông, phần vì cảm mến Blăng-sốt, song cũng vì muốn đem lại niềm vui cho Xi-mông. Các bạn bè của Xi-mông thật đáng trách khi trêu chọc em.
1)+Phần 1 (từ đầu đến "em chỉ khóc hoài"): nỗi tuyệt vọng của Xi-mông
+Phần 2 (tiếp ... một ông bố): bác Phi-líp gặp Xi-mông và an ủi em.
+Phần 3 (tiếp ... bỏ đi rất nhanh): bác Phi-líp đưa Xi-mông về với mẹ và nhận làm bố của em.
+Phần 4 (còn lại) : Xi-mông tin tưởng và nới với các bạn rằng em có bố Phi-líp.
2)
Xi-mông đau đớn vì bạn bè trêu chọc và đánh em vì em không có bố.
Nỗi đau đớn đó được bộc lộ qua ý nghĩ và hành động của em:
+Ý nghĩ bỏ nhà ra bờ sông định tự tử, cảnh vật khiến em nghĩ đến nhà, đến mẹ.
+Nỗi đau thể hiện ở những giọt nước mắt của em. Em khóc nhiều, buồn bã vô cùng, “em lại khóc, người em rung lên”,...
+Nỗi đau đớn tủi hơn còn biểu hiện ở cách nói năng của em. Em nói không nên lời, cứ bị ngắt quãng, các tiếng cứ lặp đi lặp lại.
3)
Qua hình ảnh ngôi nhà của chị Blăng-sốt, thái độ của chị đối vơi khách và nồi lòng của chị khi nghe con nói, chứng minh chị Blăng-sốt chẳng qua vì lầm lỡ mà sinh ra Xi-mông, chứ căn bản chị là người tốt:
+Blăng-sốt là cô gái một thời lầm lờ khiến cho Xi-mông trở thành đứa con không có bố. Nhưng thực ra chị là người phụ nữ đức hạnh, đứng đắn, chẳng qua bị lừa dối.
+Ngôi nhà của chị tuy nhỏ, quét vôi trắng, sạch sẽ, cuộc sống có khó khăn, nghèo đói nhưng chị sống đúng đắn, nghiêm túc.
+Bản chất của chị còn được bộc lộ qua thái độ của chị đối với khách. Chị khiến người lạ cảm giác không thể bỡn cợt được với vẻ nghiêm nghị “như muốn cấm đàn ông bước qua ngưỡng cửa”.
+Bản chất tốt còn bộc lộ ở nỗi lòng của chị khi nghe con nói bị bạn đánh vì không có bố, thương con chị “nước mắt lã chã”, đau đớn lặng ngắt.
4)
Diễn biến tâm trạng của Phi-lip:
+Mới đầu, gặp Xi-mông, bác rất thương em, lựa lời an ủi em và có những suy nghĩ khá thú vị.
+Khi đưa Xi-mông về nhà, Phi-líp nghĩ bụng có thể đùa cợt với chị Blăng- sốt nhưng đó là một suy nghĩ mang ẩn ý không được trong sáng lắm nhưng lại làm cho câu chuyện thêm hấp dẫn.
+Khi gặp chị Blăng-sốt: nhận ra ý nghĩ sai lầm của mình, lúng túng.
+Cuối cùng, khi đôi đáp với Xi-mông, phần vì thương Xi-mông, phần vì cảm mến Blăng-sốt, bác nói nửa như thật là bác vui lòng làm bố của Xi-mông. Phi-líp quyết định mở lòng mình đón nhận chú bé, bác đã mang lại cho Xi-mông niềm vui, niềm tin, niềm hạnh phúc trong cuộc sống.

1. Đoạn trích gợi ra cách nhìn nhận cuộc đời: phải quan sát và khám phá bản chất bên trong, tường tận về con người. Không chỉ nhìn con người chỉ qua vẻ bề ngoài. Từ đó cần có thái độ trân trọng, yêu thương, bao dung đối với những người ở quanh ta.
Tác phẩm cũng có nhắc nhở về cách nhìn và thái độ đối với con người là: Lão Hạc (Nam Cao) qua câu: "Chao ôi, đối với những người ở quanh ta, nếu ta không cố tìm hiểu họ thì sẽ thấy họ thật xấu xa, ngu ngốc, bần tiện, ... toàn những cớ để ta không thương và không bao giờ ta thương",...
2. Trong ba nhân vật, em ấn tượng nhất về nhân vật bác Phi-lip. Vì bác là người công nhân sống rất nhân hậu, quan tâm đến mọi người. Bác hào hiệp nhận Xi-mông là con và trân trọng người phụ nữ đã lầm lỡ là Blăng-xốt....

rong những năm tháng kháng chiến chống thực dân Pháp gian lao, lẽ đương nhiên, hình ảnh những người lính, những anh bộ đội sẽ trở thành linh hồn của cuộc kháng chiến, trở thành niềm tin yêu và hi vọng của cả dân tộc. Mở đầu bài thơ Đồng chí, Chính Hữu đã nhìn nhận, đã đi sâu vào cả xuất thân của những người lính:
Quê hương anh đất mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá
Sinh ra ở một đất nước vốn có truyền thống nông nghiệp, họ vốn là những người nông dân mặc áo lính theo bước chân anh hùng của những nghĩa sĩ Cần Giuộc năm xưa. Đất nước bị kẻ thù xâm lược, Tổ quốc và nhân dân đứng dưới một tròng áp bức. Anh và tôi, hai người bạn mới quen, đều xuất thân từ những vùng quê nghèo khó. hai câu thơ vừa như đối nhau, vừa như song hành, thể hiện tình cảm của những người lính. Từ những vùng quê nghèo khổ ấy, họ tạm biệt người thân, tạm biệt xóm làng, tạm biệt những bãi mía, bờ dâu, những thảm cỏ xanh mướt màu, họ ra đi chiến đấu để tìm lại, giành lại linh hồn cho Tố quốc. Những khó khăn ấy dường như không thể làm cho những người lính chùn bước:
Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau
Súng bên súng, đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ

chắc bạn đang học lớp 9 nên mik sẽ viết kiểu lớp 9 từ ngữ dễ hiểu nha
Trong cuộc sống, ai rồi cũng phải lớn lên và trưởng thành. Nhưng trưởng thành không chỉ có nghĩa là cao hơn, già hơn, mà còn là cách mỗi người biết sống có trách nhiệm với bản thân và với mọi người xung quanh. Vì thế, ý kiến “Tinh thần trách nhiệm với bản thân và cộng đồng là biểu hiện của sự trưởng thành” là hoàn toàn đúng.
Trước hết, trách nhiệm với bản thân là biết tự lo cho chính mình. Đó là khi ta biết giữ gìn sức khỏe, chăm chỉ học tập, làm việc nghiêm túc và tự chịu trách nhiệm với hành động của mình. Một học sinh có trách nhiệm sẽ không lười học, không viện cớ cho sự chậm trễ, mà tự giác cố gắng để tiến bộ.
Không chỉ với bản thân, người trưởng thành còn biết sống trách nhiệm với cộng đồng. Điều này thể hiện ở việc ta biết quan tâm, chia sẻ và giúp đỡ người khác. Ví dụ, trong đợt dịch bệnh vừa qua, nhiều bạn trẻ đã tham gia hỗ trợ chống dịch, phát cơm từ thiện, giúp đỡ người nghèo. Họ đã sống vì mọi người, và nhờ vậy mà xã hội trở nên tốt đẹp hơn.
Ngược lại, những người chỉ biết đến lợi ích cá nhân, không lo cho bản thân cũng chẳng quan tâm đến tập thể, thì khó có thể coi là người trưởng thành. Họ dễ bị người khác chê trách và khó được tin tưởng.
Là học sinh, chúng ta cần rèn luyện tinh thần trách nhiệm ngay từ bây giờ: học tập chăm chỉ, giữ vệ sinh lớp học, giúp đỡ cha mẹ, thầy cô và bạn bè. Khi biết sống có trách nhiệm, ta không chỉ trưởng thành hơn mà còn trở thành người có ích cho xã hội.
Kết lại, trưởng thành là khi ta biết tự lo cho bản thân và biết nghĩ đến cộng đồng. Tinh thần trách nhiệm chính là dấu hiệu rõ ràng nhất để nhận ra một người đã thật sự trưởng thành.
cho mik xin tick nha. Cảm ơn cậu!

Đoạn trích “Đất là Mẹ…” của tù trưởng Xi-át-tơn vang lên như một lời nhắc nhở thiêng liêng: con người và thiên nhiên có mối quan hệ gắn bó máu thịt, mọi sự tổn thương dành cho đất trời cũng chính là làm tổn thương chính mình. Trong bối cảnh hiện nay, khi ô nhiễm không khí, nước, đất, biến đổi khí hậu ngày càng khốc liệt, mỗi người cần nhận thức rõ trách nhiệm của bản thân trong việc bảo vệ môi trường tự nhiên.
Trước hết, mỗi cá nhân phải thay đổi tư duy: từ coi thiên nhiên là đối tượng để khai thác sang trân trọng và gìn giữ. Thiên nhiên không vô tận. Nguồn nước, không khí, rừng, biển đều có giới hạn. Ý thức đúng đắn chính là nền tảng của mọi hành động xanh. Hãy bắt đầu từ việc nhỏ: tiết kiệm điện nước, hạn chế rác thải nhựa, phân loại và tái chế rác. Mỗi cử chỉ, thói quen giản dị ấy góp phần giảm áp lực cho môi trường.
Tiếp theo, mỗi người cần tích cực tham gia các hoạt động cộng đồng như trồng cây, dọn rác, bảo vệ nguồn nước, đồng thời lên tiếng phản đối những hành vi phá hoại thiên nhiên. Sự chung tay của cộng đồng sẽ tạo ra sức mạnh lớn, khơi dậy trách nhiệm xã hội, buộc các doanh nghiệp và cơ quan quản lý hành động mạnh mẽ hơn vì môi trường.
Quan trọng hơn, thế hệ trẻ cần trang bị tri thức và kỹ năng sống xanh, ứng dụng khoa học để tìm ra giải pháp năng lượng sạch, sản xuất bền vững. Mỗi công dân khi trưởng thành phải ý thức rằng mình vừa là người hưởng thụ, vừa là người bảo vệ thiên nhiên, truyền tiếp thông điệp yêu thiên nhiên cho thế hệ mai sau.
Kết luận, từ thông điệp “Đất là Mẹ” của Xi-át-tơn, chúng ta hiểu rằng bảo vệ môi trường không phải việc của riêng ai. Đó là nghĩa vụ, là lẽ sống của mỗi con người. Sống hài hòa với thiên nhiên chính là bảo vệ sự sống của chính mình và tương lai bền vững của hành tinh xanh.

Có lẽ ai trong cuộc đời cũng đều có một ước mơ của riêng mình. Bởi “không ai đánh thuế ước mơ” - chúng ta luôn có quyền mơ ước những điều tốt đẹp cho bản thân.
Ước mơ chính là những dự định, khao khát mà mỗi chúng ta mong muốn đạt được trong thời gian ngắn hoặc dài. Có ước mơ to lớn, cũng có ước mơ nhỏ bé. Nó trở thành động lực để mỗi chúng ta vạch ra phương hướng đường đi để dẫn đến mục tiêu mà mình đã định trước.
Ước mơ có vai trò vô cùng quan trọng trong cuộc sống của mỗi con người. Người ta ví ước mơ giống như ngọn đuốc soi đường cho chúng ta biết hành động và hướng chúng ta đến những đường tốt đẹp. Ước mơ cũng chính là mong muốn được cống hiến sức lực của mình xã hội và khi chúng ta đạt được ước mơ cũng chính là lúc chúng ta được mọi người công nhận năng lực của mình. Mỗi con người sinh ra đều là một phần tử nhỏ bé của xã hội nhưng không thể vì vậy mà ta để mình nhạt mờ đi giữa đám đông.
Ước mơ giúp con người chứng minh cho xã hội thấy mình là người có giá trị. Nó thúc đẩy con người phải tự mình hành động, theo đuổi đam mê. Khi muốn theo đuổi ước mơ, con người phải thật sự cố gắng. Dù biết rằng con đường đi tới ước mơ vô cùng khó khăn, nhưng không có thành công nào mà đường đi của nó lại trải đầy hoa hồng. Bởi vậy ta cần phải chấp nhận khó khăn là một phần của cuộc sống và ta phải vượt qua nó thì mới có thể thành công. Trong hành trình gian nan ấy, ước mơ là vì sao sáng soi những lối ta đi, khi đi qua những khó khăn, bạn sẽ nhìn thấy ước mơ của mình lấp lánh ở phía xa xa, bạn sẽ nỗ lực bước tiếp. Những ước mơ sẽ đưa con người đi tới tương lai, không quản những gian nan, nghiệt ngã của cuộc đời để chinh phục ước mơ.
Là một học sinh đang ngồi trên ghế nhà trường, cần phải xác định cho bản thân một ước mơ và mục đích sống. Để đạt được ước mơ, chúng ta cần ra sức học tập, tu dưỡng đạo đức để chuẩn bị những hành trang cần thiết cho con đường đi tới ước mơ của mình. Đó cũng chính là điều mà mỗi người cần có cho hành trình đi tới tương lai.
Nghị luận về ước mơ trong cuộc sống ngắn gọn - Mẫu 7
Để sáng tạo tương lai, cần bắt đầu bằng một ước mơ. Ước mơ hay chính là những khao khát, mong muốn mà ta luôn cố gắng để hiện thực hóa trong tương lai. Nếu như cuộc đời là một con đường dài nhiều ngã rẽ, thì ước mơ chính là đích đến của con đường ấy. Có ước mơ là chúng ta có thêm động lực để phấn đấu.
Ước mơ, khát vọng giống như chiếc đồng hồ báo thức, đánh thức ta mỗi lúc còn chênh vênh, vô định trên bước đường đời. Ước mơ với mỗi người là khác nhau. Có những ước mơ giản dị, là nụ cười trên môi những đứa con của cô bán hàng rong giữa dòng đời thường nhật. Có ước mơ lớn lao, muốn trở thành tỉ phú của cậu học trò còn đang ngồi trên ghế nhà trường. Chẳng ai đánh thuế những ước mơ, ước mơ rất diệu kì nhưng không hề khó để có được. Nếu không mơ, sống không có khát vọng, hoài bão thì đâu là câu trả lời cho những hành động bạn đang làm hàng ngày, những nỗ lực mà bạn đang bỏ ra? Nếu không phải là mong muốn, ước vọng về một nền hòa bình độc lập cho dân tộc, thì người thanh niên Nguyễn Tất Thành trong một ngày tháng 6 năm ấy làm sao có thể can đảm, dũng cảm rời bến cảng Nhà Rồng để chính thức bắt đầu cuộc hành trình đi tìm đường cứu nước? Nếu không phải là ước mơ về những năm tháng say mê học hỏi trên giảng đường đại học, thì làm sao hàng ngàn sĩ tử có thể quyết tâm ôn luyện, học tập từng ngày như vậy?
Con đường đời sẽ bớt những sai lầm không đáng có nếu ta xác định được đích đến, ước mơ của bản thân mình. Thật đáng buồn, đáng phê phán những cuộc đời vô nghĩa, những con người sống mà không có khát vọng, hoài bão. Ước mơ không phải là mơ mộng hão huyền, những dự định là ước mơ tốt đẹp khi dự định ấy nằm trong khả năng cố gắng của bạn, những dự định mà bạn có thể hoàn thành bằng lòng quyết tâm, kiên trì và lương thiện.
Viết về ước mơ, tôi tự nhìn lại mình, nhận thức được vai trò của ước mơ trong cuộc sống và sẽ tận tâm, tận hiến, hết mình để hiện thực hóa ước mơ tôi. Ở trên đời, mọi chuyện sẽ không có gì khó khăn nếu ước mơ của mình đủ lớn.
● Đoạn trích gợi ra cách nhìn cuộc đời, phải quan sát và khám phá bản chất bên trong tường tận về con người không thể chỉ nhìn bề ngoài.
● Từ đó cần có thái độ trân trọng yêu thương, bao dung đối với mọi con người ở quanh ta.