Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

Câu 1:
Nhân vật người chinh phụ trong Chinh phụ ngâm là hình ảnh tiêu biểu cho nỗi đau của người vợ có chồng ra trận trong thời loạn lạc. Qua từng câu thơ, nỗi cô đơn, buồn tủi và khao khát hạnh phúc lứa đôi hiện lên một cách sâu sắc. Chồng ra đi, người chinh phụ sống trong cảnh “phòng không”, lẻ loi, nhớ nhung da diết. Nàng không chỉ đau vì phải xa cách người thương mà còn vì nỗi lo lắng, thấp thỏm cho sự an nguy của chồng nơi chiến trường. Những hành động như “gảy đàn”, “thắp đèn”, “trông cửa” chỉ càng làm nổi bật nỗi nhớ và sự trống trải trong tâm hồn. Tâm trạng của nàng là sự giằng xé giữa bổn phận với đất nước và khát vọng hạnh phúc cá nhân. Thông qua hình ảnh người chinh phụ, tác giả không chỉ bày tỏ nỗi thương cảm với số phận người phụ nữ trong chiến tranh mà còn ngầm lên án những cuộc chiến phi nghĩa, đẩy con người vào cảnh chia lìa, đau khổ. Nhân vật người chinh phụ vì vậy trở thành biểu tượng cho nỗi đau thầm lặng và phẩm chất thủy chung của người phụ nữ xưa.
Câu 2:
Khi đọc Chinh phụ ngâm, ta không chỉ cảm nhận được nỗi cô đơn của người vợ có chồng ra trận mà còn thấy rõ những mất mát, đau thương mà chiến tranh để lại cho con người. Hình ảnh người chinh phụ ngày ngày ngóng trông chồng giữa chốn khuê phòng lạnh lẽo là minh chứng rõ nét cho bi kịch chia lìa mà chiến tranh gây nên. Không chỉ có sự xa cách, chiến tranh còn gieo rắc cái chết, tàn phá hạnh phúc và để lại những vết thương không thể xóa nhòa trong lòng người.
Chiến tranh là kẻ thù lớn nhất của hòa bình, là nguyên nhân sâu xa của đau thương và chia cắt. Bao nhiêu người con đã ngã xuống nơi chiến trường, bao nhiêu mái ấm tan vỡ, bao nhiêu bà mẹ, người vợ, đứa trẻ sống trong nước mắt và hy vọng mỏi mòn. Không chỉ trong văn chương mà cả trong lịch sử dân tộc và thế giới, chiến tranh luôn để lại những hậu quả nặng nề về thể xác lẫn tinh thần. Nó không chỉ tàn phá làng mạc, thành phố mà còn cướp đi những giá trị nhân văn cao đẹp của con người: tình yêu, lòng nhân ái, hạnh phúc và sự bình yên.
Ngày hôm nay, chúng ta may mắn được sống trong hòa bình – thành quả của biết bao máu xương, hy sinh của cha ông. Vì vậy, thế hệ trẻ càng cần phải ý thức sâu sắc về giá trị của cuộc sống hòa bình và trách nhiệm giữ gìn nó. Trân trọng hòa bình không chỉ là biết ơn quá khứ mà còn là hành động thiết thực trong hiện tại: sống nhân ái, học tập, lao động, cống hiến để xây dựng một xã hội văn minh, tiến bộ và không còn chỗ cho bạo lực hay hận thù. Mỗi người trẻ cần trở thành một "chiến sĩ" gìn giữ hòa bình – bằng tri thức, bằng tình yêu thương, bằng sự tỉnh táo trước cái xấu, cái ác, và bằng tiếng nói phản đối mọi hành vi chia rẽ, kỳ thị hay kích động chiến tranh.
Chiến tranh là bài học đau đớn của nhân loại, còn hòa bình là khát vọng ngàn đời của con người. Bởi thế, chỉ khi biết trân trọng sự yên bình đang có, thế hệ trẻ hôm nay mới thực sự xứng đáng với sự hy sinh của cha ông và góp phần gìn giữ một tương lai không còn bóng dáng chiến tranh.
Câu 1:
Trong đoạn trích Chinh phụ ngâm, hình ảnh người chinh phụ hiện lên đầy đau khổ, xót xa. Người chinh phụ sống trong cảnh chia xa, nhiều năm mong ngóng tin chồng nhưng tin tức vẫn bặt vô âm tín: “Trải mấy xuân tin đi tin lại, / Tới xuân này tin hãy vắng không”. Nỗi mong chờ ấy khiến nàng luôn dõi theo từng cánh nhạn, từng áng mây, thậm chí gieo bói cầu tin, viết thư rồi lại mở ra trong tuyệt vọng. Nỗi nhớ thương khiến nàng trở nên gầy guộc, xiêm áo lỏng lẻo, bước chân nặng nề dạo hiên vắng, ngồi sau rèm buồn bã. Cô đơn đến mức, người chinh phụ phải mượn cả ngọn đèn để trò chuyện: “Đèn có biết dường bằng chẳng biết / Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi”. Qua hình ảnh này, ta thấy rõ thân phận nhỏ bé, bất hạnh của người phụ nữ trong xã hội phong kiến khi chồng ra trận: họ chỉ biết chờ đợi, hy sinh trong cô quạnh và đau thương. Đồng thời, tác phẩm cũng gợi cho người đọc niềm cảm thương sâu sắc đối với những phận người bị chiến tranh làm cho chia lìa, bất hạnh.

Câu 1: Phương thức biểu đạt chính của văn bản trên là: Nghị luận
Câu2: Theo tác giả, việc hiểu được bản thân là điều khó, cần hiểu bản thân để từ đó làm việc mình thích và có một cuộc đời như mơ ước.
Câu 3: “Mỗi người trong chúng ta là một cá thể khác biệt“, Mỗi cá nhân trong đời sống có một ngoại hình riêng, một cá tính, tính cách độc lập; có những sở trường, sở đoản… khác nhau.

Trong cuộc sống của chúng ta, có biết bao khó khăn mà ta cần phải vượt qua. Những khó khăn đó như một định luật tự nhiên để ta có thể phát triển và thăng tiến. Nhưng để có thể vượt qua được những khó khăn đó đòi hỏi chúng ta phải có sự kiên trì, bền bỉ. Và Nguyễn Bá Học đã có câu châm ngôn: "Đường đi khó không khó vì ngăn sông cách núi mà khó vì lòng người ngại núi e sông". Vậy bây giờ chúng ta hãy cùng nhau tìm hiểu câu nói này của ông!
Đường đi ở đây có nghĩa là con đường mà chúng ta phải đi, phải vượt qua để tiến về phía trước. Trên đường đi của chúng ta chắc chắn sẽ phải có nhiều những con sông, những ngọn núi làm cho chúng ta khó có thể vượt qua. Nhưng con đường đó dù có bao nhiêu sông, bao nhiêu núi, nếu chúng ta không ngại ngùng, lo âu, sợ hãi hay chán nản, chùn bước, buông xuôi thì ta vẫn có thể vượt qua được nó một cách dễ dàng. Nhìn chung, qua câu nói này, Nguyễn Bá Học muốn ngụ ý cho chúng ta rằng con đường đi cho dù khó mấy thì ta cũng vẫn có thể vượt qua, điều quan trọng là tâm ý của ta có kiên định để vượt qua những khó khăn mà con đường đó mang tới cho ta hay không? Nói sâu hơn thì con đường mà Nguyễn Bá Học muốn nói tới đó là đường đời, chúng ta phải dùng chính sức của mình để vượt qua nó, nếu chỉ biết dựa dẫm, nhờ vả mà không nỗ lực thì sẽ không tài nào vượt qua được.
Khó khăn như là một câu thách đố đòi hỏi chúng ta phải biết vượt qua chính mình bằng cách chỉnh đốn lại nội tâm và làm chủ bản thân. Chỉ có lòng kiên định và ý chí kiên trì bền bỉ mới có thể giúp ta vượt qua được những trở ngại của cuộc sống. Đó là một nền tảng mà bất cứ người nào cũng cần nên có. Chẳng hạn như chủ tịch Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc ta, suốt một đời lo cho nước, cho dân, đi nhiều nơi và làm đủ mọi việc. Con đường Người phải đi thật gian lao, vất vả nhưng với ý chí, quyết tâm, nghị lực phi thường, Người đã mang đến cho dân tộc ta ánh sáng của độc lập tự do, một cuộc đời ấm no, hạnh phúc.
Bên cạnh đó cũng còn rất nhiều người không biết dùng sức mình để vượt qua khó khăn, họ chỉ biết dựa dẫm vào người khác. Những người đó là những người không biết vượt qua nhiệm vụ mà cuộc sống đã thử thách chúng ta, thật đáng bị xã hội phê phán. Không nói đâu xa, chỉ cần nói trong học sinh chúng ta. Khi làm bài kiểm tra, những bạn biết tự dùng sức mình để làm bài vẫn hơn những bạn không học mà quay cóp hay mở tập. Dù có thể điểm số khi phát ra của những bạn đó không cao bằng những bạn quay cóp nhưng những bạn đó có thể tự hào vì mình đã không làm những chuyện làm cho lương tâm mình day dứt. Vì vậy, cho dù khó khăn có thế nào đi nữa thì chúng ta đừng nên nản lòng, hãy vững tâm bước tiếp, có như vậy ta mới có được những bài học sáng suốt để có thể vượt qua những khó khăn của cuộc sống.
Chúng ta không thể biết con đường này, hay nói cách khác là đường đời sẽ dẫn ta đến đâu nếu ta chưa thực sự đi qua nó. Có rất nhiều khả năng mà ta không thể kiểm soát được. Điều duy nhất có thể làm là ta phải biết làm chủ mình, đưa ra quyết định thật đúng đắn và quyết tâm kiên trì theo đuổi đến cùng. Như vậy không sớm thì muộn ta cũng có thể vượt qua được nó. Cũng như chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: "Không có việc gì khó - Chỉ sợ lòng không bền - Đào núi và lấp biển - Quyết chí ắt làm nên".
Chỉ cần có ý chí là chúng ta có thể vượt qua được mọi trở ngại cho dù trở ngại đó có lớn đến mức nào. Khó khăn càng lớn khi ước vọng càng cao, khó khăn càng không thể vượt qua khi khả năng làm chủ bản thân càng thiếu. Vậy tại sao chúng ta không thử quyết tâm, kiên trì theo đuổi một điều gì đó đến cùng để rồi ta có thể nhận được một thành quả lớn như ta đã mơ ước?
Cuộc sống luôn là một bức tranh muôn màu muôn vẻ, còn biết bao nhiêu điều đang chờ đợi ta phía trước. Vì thế hãy dám nghĩ, dám quyết định và lựa chọn con đường đi cho chính bản thân mình, đừng nên chần chừ và do dự. Kiến thức, niềm tin, lòng nhiệt huyết và sự quyết tâm kiên trì vượt khó sẽ là những người bạn đồng hành không thể thiếu của mỗi người chúng ta trên con đường đời ấy.

Câu 1. Văn bản trên thuộc thể loại truyện thơ Nôm.
Câu 2. Nhân vật xuất hiện: Cúc Hoa, Tống Trân, mẹ chồng Cúc Hoa.

Nếu nói bản lĩnh nghiêng về thực hành thì ý chí chính là phần lý thuyết. Muốn thực hành thì phải nắm vững lý thuyết mà áp dụng. Có ý chí, con người mới có đủ quyết tâm để chinh phục những tầm cao mới. Bản thân ý chí vốn không có một định nghĩa cụ thể. Nói đơn giản, đó là quyết tâm cố gắng vượt qua gian khổ thử thách; còn nói phức tạp, ý chí là mồi lửa giúp cho bản lĩnh bùng cháy. Ông bà ta có câu “có chí thì nên” cũng là vì lẽ đó. Chưa nói đến khả năng bạn đến đâu, chỉ riêng việc bạn có cho mình một ý chí sắt đá cùng niềm tin vững vàng thì bạn đã đi trước người khác một bước! Nhưng, cái gì cũng có cái giá của nó, ý chí cũng không phải là một ngoại lệ. Để có được một tinh thần thép khi đứng trước bão tố của cuộc đời, bạn sẽ phải bỏ ra rất nhiều thời gian và công sức để mài sắt luyện kim! Vậy nên, người nói được câu “Tôi có ý chí” thì rất nhiều, nhưng người mà hành động của họ nói lên điều đó thì quả thực không được mấy ai. Những người chỉ mới giáp mặt cơn lốc xoáy hung tợn đã nhụt chí xin hàng, hay những kẻ sẵn sàng quỳ gối trước những thế lực mạnh mẽ, tất cả bọn họ suy cho cùng đều là vì thiếu đi cái ý chí cần thiết. Họ không biết cách tự tạo cho riêng mình một đế chế hùng mạnh. Những người như thế, chung quy lại, cũng chỉ mãi là kẻ thất bại mà thôi. Còn bạn? Bạn sẽ chọn con đường gập ghềnh hướng tới tương lai hay biến mình thành một con ốc chỉ biết thu mình trong vỏ?
Câu 1:
Trong Tống Trân - Cúc Hoa, nhân vật Cúc Hoa gây ấn tượng mạnh bởi tấm lòng thủy chung và sự hi sinh dành cho chồng. Vốn là con nhà giàu, nhưng nàng sẵn sàng lấy một chàng trai nghèo khó chỉ vì tình nghĩa. Khi về làm dâu, Cúc Hoa vừa chăm lo mẹ chồng, vừa gánh vác việc nhà, lại còn bán cả vàng để rước thầy dạy học cho chồng. Nàng không chỉ đảm đang mà còn có cái nhìn xa: biết rằng chỉ có con đường học hành mới giúp chồng thoát khỏi nghèo khổ, mới lo được cho mẹ và cho gia đình. Chính sự hi sinh lặng lẽ ấy đã tiếp thêm sức mạnh để Tống Trân đỗ đạt và thành công. Ở Cúc Hoa, ta thấy hiện lên hình ảnh quen thuộc của người phụ nữ Việt Nam: giàu tình yêu thương, nhẫn nại, và hết lòng vì hạnh phúc gia đình. Nhân vật này khiến ta cảm phục bởi sự thủy chung và ý chí kiên cường, dẫu khó khăn vẫn không hề than vãn.
Câu 2:
Ai cũng muốn có một tương lai tốt đẹp, nhưng con đường đi tới thành công chưa bao giờ bằng phẳng. Đọc Tống Trân – Cúc Hoa, ta thấy rõ điều đó: một chàng trai nghèo cùng người vợ hiền đã trải qua vô vàn vất vả, thế nhưng họ không nản chí mà vẫn một lòng hướng về mục tiêu. Nhờ vậy, Tống Trân mới có thể trở thành Trạng nguyên, còn Cúc Hoa được tôn vinh bởi sự thủy chung, hi sinh.
Trong thực tế, khó khăn giống như những “bài kiểm tra” của cuộc đời. Chúng khiến ta mệt mỏi, có lúc muốn bỏ cuộc, nhưng nếu vượt qua được thì bản thân lại trưởng thành, mạnh mẽ hơn rất nhiều. Người dễ dàng bỏ cuộc sẽ mãi dừng chân ở vạch xuất phát, còn người kiên trì lại có cơ hội gặt hái thành công. Câu chuyện của Tống Trân và Cúc Hoa cho ta bài học: muốn đạt được ước mơ thì phải giữ vững niềm tin, không lùi bước trước thử thách.
Để rèn luyện nghị lực, mỗi người có thể bắt đầu từ những việc nhỏ như: đặt mục tiêu học tập rồi kiên trì theo đuổi, tập thói quen không bỏ dở giữa chừng, giữ cho mình một tinh thần lạc quan và tìm sự động viên từ gia đình, bạn bè. Ngoài ra, cũng cần rèn luyện sức khỏe, vì một tinh thần mạnh mẽ luôn cần một thể chất khỏe khoắn.
Nói ngắn gọn, không nản lòng trước khó khăn chính là chìa khóa để chúng ta mở cánh cửa thành công. Người trẻ hôm nay càng cần học cách kiên cường, để mỗi thử thách không làm ta gục ngã mà trở thành bước đệm giúp ta tiến xa hơn.