K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

13 tháng 9 2017

1. Bối cảnh

- Việt Nam trước nguy cơ bị xâm lược từ bên ngoài

+ Đến giữa thế kỷ XIX, cùng với quá trình tiến lên chủ nghĩa đế quốc của tư bản phương Tây, một loạt các nước châu Á, trong đó có Đông Nam Á bị biến thành thuộc địa. Việt Nam cũng không tránh khỏi bị nhòm ngó. Trong cuộc chạy đua giữa các nước tư bản phương Tây, cuối cùng tư bản Pháp đã “bám sâu” được vào Việt Nam, thông qua Hội truyền giáo nước ngoài của Pháp.

0,25

+ Từ khi thất thế ở Ca-na-đa, Ấn Độ…Pháp càng muốn có thuộc địa ở Viễn Đông, mà trước hết là ở Việt Nam.

0,25

- Tình hình Việt Nam giữa thế kỉ XIX: chế độ phong kiến Việt Nam đã bộc lộ những dấu hiệu của sự khủng hoảng suy yếu nghiêm trọng.

+ Các vua triều Nguyễn ra sức củng cố chế độ quân chủ chuyên chế…

0,25

+ Kinh tế nông nghiệp, công – thương nghiệp ngày càng sa sút…

0,25

+ Đường lối đối ngoại sai lầm khiến cho Việt Nam ngày càng bị cô lập. Việc cấm đạo và bài xích đạo Thiên Chúa tạo điều kiện cho kẻ thù bên ngoài lợi dụng.

0,25

+ Đời sống nhân dân ngày càng cực khổ. Hàng loạt các cuộc khởi nông dân nổ ra như khởi nghĩa của Phan Bá Vành, Lê Duy Lương…

2. Những thách thức lịch sử

- Bối cảnh lịch sử trên đặt triều Nguyễn trước sự lựa chọn một trong hai con đường:

+ Hoặc là tiến hành cải cách nhằm thoát khỏi tình trạng khủng hoảng ở trong nước, mở rộng quan hệ bang giao để khôn khéo bảo toàn chủ quyềnđộc lập.

+ Hoặc là chìm đắm trong chính sách thủ cựu và tự cô lập nhằm cố gắng bằng mọi cách duy trì chế độ chế độ quân chủ chuyên chế lạc hậu.

3. Triều Nguyễn duy trì đường lối bảo thủ, hậu quả

- Vì quyền lợi của dòng họ và giai cấp triều Nguyễn đã thi hành chính sách bảo thủ… hậu quả là đặt Việt Nam vào tình thế bất lợi trước cuộc xâm lược vũ trang của thực dân Pháp.

5 tháng 5 2017

+ Chủ trương cứu nước của hai cụ.

- Phan Bội Châu: Đánh đuổi thực dân Pháp, khôi phục lại chế đội phong kiến ( Thành lập Duy Tân Hội, tổ chức phong trào Đông du...)

- Phan Châu Trinh: Đánh đổ phong kiến, thực hiện cải cách xã hội “ Khai thông dân trí, mở mang dân quyền”( Lập Hội buôn, mở trường Đông kinh nghĩa thục..)

* Nhận xét điểm giống nhau và khác nhau trong chủ trương cứu nước của Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh.

+ Giống nhau:

- Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh đại diện cho phong trào dân tộc dân chủ của tầng lớp sỹ phu yêu nước tiến bộ đầu thế kỷ XX.

- Chủ trương cứu nước của các cụ vừa giống nhau vừa thống nhất với nhau ở khái niệm “ Dân nước và nước dân”.

+ Khác nhau:

- Phan Bội Châu: Chủ trương vận động quần chúng tranh thủ sự giúp đỡ của nước ngoài ( Nhật bản), tổ chức bạo động đánh đuổi thực dân Phápgiành độc lập dân tộc. Xây dựng chế độ chính trị Quân chủ lập hiến.

- Phan Châu Trinh: gương cao ngọn cờ dân chủ, cải cách xã hội, chủ trươngư cứu nước bằng phương pháp nâng cao dân trí, dân quyền. Vạch trần chế đđộ vua quan phong kiến thối nát, đòi Pháp sửa đổi chính sách cai trị thuộc địa.

Kết luận: Phong trào dân tộc- dân chủ của tầng lớp sỹ phu Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh đều không thành công nhưng đã tạo đà cho những cuộc vận đông cách mạng mới.

30 tháng 3 2016

Thách thức của lịch sử Việt Nam thế kỷ XIX 
Đến đầu thế kỷ XIX, Việt Nam là một quốc gia phong kiến độc lập có chủ 

quyền, đã đạt được những thành tựu to lớn và toàn diện trên tất cả các mặt từ 
kinh tế, chính trị đến văn hóa và giáo dục. Đặc biệt, trong lịch sử, dân tộc Việt 
Nam đã đánh bại nhiều kẻ thù hùng mạnh để bảo vệ nền độc lập dân tộc như 
Tống, Nguyên, Minh, Thanh,… 
Tuy nhiên, sang đầu thế kỷ XIX, chế độ phong kiến Việt Nam vốn đã suy 
yếu từ trước lâm vào cuộc khủng hoảng trầm trọng dưới triều Nguyễn trên tất 
cả các lĩnh vực. Trong khi đó, các nước tư bản Âu-Mỹ bắt đầu đẩy mạnh xâm 
lược thuộc địa để phục vụ cho nhu cầu phát triển nhanh chóng của chủ nghĩa tư 
bản. Các nước Đông Nam Á đều bị biến thành thuộc địa của các nước thực dân 
phương Tây (trừ Thái Lan). Điều đó đặt ra cho giai cấp phong kiến Việt Nam 
giai đoạn này phải lựa chọn con đường phát triển và cách thức phù hợp để đưa 
đất nước thoát khỏi nguy cơ trở thành thuộc địa của các nước thực dân. 
1. Bối cảnh thế giới và khu vực 
Từ thế kỉ XVI đến thế kỉ XIX, châu Âu và Bắc Mỹ đã tiến hành thành công 
các cuộc cách mạng tư sản, cách mạng công nghiệp không ngừng được triển 


khai, thúc đẩy chủ nghĩa tư bản phát triển nhanh chóng, khoa học kĩ thuật phát 
triển mạnh đạt đến trình độ tiên tiến của thế giới lúc bấy giờ. Đồng thời với sự 
lớn mạnh đó, các nước tư bản Âu-Mỹ đẩy mạnh chiến tranh xâm lược để chiếm 
đoạt thị trường và thuộc địa. Sự ra đời và phát triển mạnh mẽ của chủ nghĩa tư 
bản làm xuất hiện sự thèm muốn ngày càng tăng, đưa tới cuộc chinh phục thuộc 
địa một cách dã man, đi đến tước đoạt nền độc lập của các quốc gia, châu Á 
cũng không phải là một ngoại lệ. Điều này Mác và Ăng ghen đã từng cảnh báo 
trong tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản: “Giai cấp tư sản đã bắt nông 
thôn phải phục tùng thành thị, bắt những nước dã man hay nửa dã man phụ 
thuộc vào những dân tộc tư sản, bắt phương Đông phụ thuộc vào phương Tây”. 
Trong bước khởi đầu gặp gỡ Đông-Tây, theo sau các nhà hàng hải đi khám phá 
con đường sang phương Đông là thương nhân và giáo sĩ. Họ mang theo hàng 
hóa và kinh thánh du nhập vào đây văn hóa vật chất và tinh thần của người châu 
Âu. Rồi đến lượt những đội quân viễn chinh và các nhà cai trị. Tinh túy của 
nền văn minh phương Tây qua lớp người này bị khúc xạ đến mức sai lệch thể 
hiện qua những cuộc cướp phá man rợ đầy tội ác và những cuộc chiến tranh 
xâm lược tàn bạo. Trong sự hào nhoáng của văn minh, thực dân phương Tây tự 
coi mình có sứ mệnh “khai hóa văn minh” mà không dám thừa nhận mục đích 
lợi nhuận của chúng. Chính vì thế, bên cạnh việc du nhập một nền sản xuất mới, 
nó đã gây ra một hậu quả không thể chối bỏ là kéo lùi đời sống vật chất và tinh 
thần của người dân thuộc địa tới mức thấp nhất. Quá trình bành trướng thế lực 
của các nước thực dân ở châu Á với quy mô mạnh mẽ toàn châu lục là vào giữa 
thế kỉ XIX, đặc biệt từ sau cuộc chiến tranh thuốc phiện ở Trung Quốc. 
Trong khi đó, ở châu Á và nhiều nơi khác trên thế giới vẫn nằm dưới ách 
thống trị của chế độ phong kiến và ở trong tình trạng lạc hậu, trì trệ. Đặc biệt, 
các quốc gia phong kiến Đông Nam Á sau một thời gian phát triển ở các thế kỷ 



trước, đến thời gian này đều lâm vào khủng hoảng trầm trọng, chính quyền 
phong kiến Trung ương suy yếu, khởi nghĩa của nhân dân nổ ra khắp nơi. Điều 
đó làm cho các nước Đông Nam Á trở thành mục tiêu nhòm ngó, xâm lược của 
các nước thực dân. 
Philippin đã trở thành thuộc địa của Tây Ban Nha vào năm 1572. Năm 1603, 
Hà Lan bắt đầu tấn công Indonesia, đến năm 1814 về cơ bản đã hoàn thành việc 
xâm lược quốc gia này. Bán đảo Mã Lai, Singapo và Brunay đều trở thành 
thuộc địa và các vùng đất bảo hộ của Anh vào cuối thế kỷ XVIII – đầu thế kỷ 
XIX. Từ năm 1824 đến năm 1885, Anh tấn công và hoàn thành việc xâm lược 
Miến Điện (Myanma ngày nay). Các quốc gia lớn ở châu Á như Ấn Độ từ năm 
1849 bị Anh độc chiếm, Trung Quốc từ sau cuộc chiến tranh thuốc phiện (18401842) bị nhiều nước đế quốc sâu xé, trở thành nửa thuộc địa, nửa phong kiến. 
Tuy nhiên, không phải tất cả các quốc gia châu Á đều trở thành nạn nhân 
của chủ nghĩa thực dân. Vẫn có những nước giữ được nền độc lập của mình; đó 
là Xiêm với chính sách ngoại giao khéo léo. Và đặc biệt Nhật Bản không chỉ 
giữ vững được nền độc lập dân tộc mà còn phát triển, vươn lên trở thành một 
nước tư bản đế quốc. 
Cuộc duy tân ở Nhật Bản diễn ra dưới sự lãnh đạo của Thiên Hoàng Minh 
Trị trên tất cả các lĩnh vực, đáng chú ý là những cải cách trên lĩnh vực hành 
chính và quân sự. Về hành chính là sự ra đời của một bản Hiến pháp mới 
(11/02/1889) được xây dựng trên cơ sở tham khảo Hiến pháp của Đức và Mỹ. 
Thực chất đó là một nhà nước quân chủ chuyên chế khoác áo đại nghị, thích 
hợp với điều kiện lịch sử của Nhật bản lúc bấy giờ. Đó là thời điểm Mạc Phủ 
mới bị xóa bỏ, sự uy hiếp của thế lực cũ vẫn còn tồn tại. Việc cải tạo Nhật Bản 
phong kiến trở thành một nước tư bản là một nhiệm vụ vô cùng khó khăn, do 



vậy cần phải có một chính quyền đủ mạnh để hoàn thành nhiệm vụ. Về quân sự 
là học tập và xây dựng quân đội theo mẫu hình phương Tây, trong đó Lục quân 
theo mô hình Phổ, còn Hải quân theo mô hình Anh. Cuộc duy tân nhằm xóa bỏ 
các hiệp ước bất bình đẳng mà Nhật Bản đã phải ký với các nước tư bản trước 
đó. Có thể thấy cuộc Minh Trị Duy Tân là một cuộc cách mạng bởi vì nó đã 
biến đổi Nhật Bản từ một nước phong kiến có nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu 
thành một nước tư bản có nền công nghiệp hiện đại, có lực lượng quân sự hùng 
mạnh, văn hóa giáo dục tiên tiến vv… nhờ đó Nhật Bản đã rút ngắn được 
khoảng cách phát triển với các quốc gia Âu – Mỹ trong một thời gian kỉ lục. 
Cải cách ở Xiêm diễn ra dưới triều đại Chakri, đặc biệt là dưới triều vua 
Rama IV (Mông-cút) và Rama V (Chulalongcon). Cuộc cải cách cũng được 
diễn ra toàn diện trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tê – xã hội, quân sự, tôn 
giáo – giáo dục, đặc biệt là việc thay đổi cơ cấu tổ chức bộ máy lãnh đạo nhà 
nước và việc soạn thảo và ban hành Hiến pháp mới theo hình mẫu các nước 
châu Âu năm 1908. Để giữ được nền độc lập tương đối của mình, Xiêm đã khéo 
léo mở cửa đất nước, đặt quan hệ với tất cả các nước đế quốc, đặc biệt là với 
Anh và Pháp, dùng sức mạnh của các nước đế quốc đó để kiềm chế lẫn nhau. 
Hơn nữa, Xiêm còn ký các Hiệp ước nhượng cho Anh và Pháp những vùng đất 
ngoài lãnh thổ biên giới quốc gia của Xiêm để giữ được độc lập và toàn vẹn 
lãnh thổ. Tóm lại, cuộc cải cách do các vua Rama IV và Rama V tiến hành đã 
tạo cho nước Xiêm một bộ mặt mới theo mô hình phương Tây, mở đầu quá 
trình định dạng mô hình chủ nghĩa tư bản ở Xiêm, quá trình đó về cơ bản được 
hoàn tất vào thập niên 60 của thế kỉ XX. 
Trong số các nước tư bản phương Tây có mặt ở Việt Nam thế kỷ XIX thì 
Pháp là nước có tham vọng nhất và mong muốn có được thuộc địa ở vùng Viễn 
Đông. Bởi sau khi để mất Canada và thất bại trong cuộc đua chinh phục Ấn Độ 


vào tay Anh, sức mạnh quốc tế của Pháp bị suy giảm. Đặc biệt, việc Anh ngày 
càng mở rộng thuộc địa ở vùng này sau khi có được Mã Lai, Brunay, Singapo, 
đặc biệt là Miến Điện buộc Pháp phải có được thuộc địa ở Đông Nam Á, đặc 
biệt là Việt Nam. Hơn nữa, lúc này, các nước đế quốc đang tập trung xâu xé 
“cái bánh ngọt” – Trung Quốc nên Pháp muốn dùng Việt Nam làm bàn đạp để 
tấn công vào Trung Quốc từ phía Nam. Vì vậy mà Pháp cực kỳ quyết tâm trong 
việc xâm lược Việt Nam để thực hiện các âm mưu của mình. Điều này cũng là 
một thách thức to lớn của lịch sử Việt Nam bởi kẻ thù của dân tộc trong thời kỳ 
này hoàn toàn khác so với các kẻ thù trước đây trong lịch sử dân tộc. Nếu như 
những kẻ thù trước đây là Tống, Nguyên, Minh, Thanh là những kẻ thù hùng 
mạnh nhưng chúng vẫn cùng là chế độ phong kiến như các triều đại của Việt 
Nam thì đến giữa thế kỷ XIX, kẻ thù của dân tộc ở một trình độ kinh tế - xã hội 
phát triển cao hơn hẳn – tư bản chủ nghĩa nên chúng có sức mạnh kinh tế - quân 
sự vượt trội so với chế độ phong kiến lạc hậu và của nhà Nguyễn. 
Việt Nam...

13 tháng 9 2017

- Khi được giáo dục, người dân Nhật mới đủ bản lĩnh tiếp theo nền tri thức tiến bộ của các nước phương Tây.
- Từ sau khi lĩnh ngộ được tri thức, người Nhật mới có thể thoát khỏi 1 nước Nông Nghiệp lạc hậu, trở thành 1 nước tư bản hùng mạnh, sau đó là 1 nuớc đế quốc ở Châu Á .

27 tháng 12 2021

trả lời j kì v bạn

5 tháng 5 2016

- Giống nhau: đều xuất phát từ lòng yêu nước, mong muốn cứu nước theo con đường dân chủ tư sản, gây ảnh hưởng sâu rộng trong quần chúng

- Khác nhau: về phương pháp thực hiện: PBC chủ trương bạo động; PCT chủ trương cải cách

28 tháng 4 2017

*Giống nhau :+ Đều có tinh thần nông nàn yêu nước

+Theo khuynh hướng dân chủ tư sản

+Dựa vào nước ngoài để đánh Pháp

+Xây dựng được cơ sở cách mạng trong nước ,nhưng chưa phát huy được sức mạnh hoàn toàn của nhân dân

+Đều có nhửng hạn chế nhất định và dẩn đến thất bại

*Khác nhau :

-Phan Bội Châu :+Muốn dựa vào Nhật để đánh Pháp

+Theo chủ trương bạo động

+Cứu nước rồi mới cứu dân

-Phan Châu Trinh:+Muốn dựa vào Pháp để đánh đổ phong kiến

+Theo chủ trương cải cách

+Cứu nước rồi mới cứu dân

14 tháng 9 2017

- Nhà Nguyễn vẫn thi hành chính sách như cũ, vẫn tiến hành đối kháng với nhân dân, thậm chí còn tăng các biện pháp áp bức bốc lột tàn bạo: các thứ thuế, kìm hãm các nhân tố kinh tế tư bản chủ nghĩa...
- Kể từ Gia Long đến Tự Đức đã có hơn 500 cuộc khởi nghĩa nổ ra.
Có thể thấy nhà Nguyễn chỉ vì quyền lợi ích kỉ củagiai cấp mình mà hi sinh quyền lợi của cả dân tộc nên đã tổ chức chống lại sự xâm lăng của Pháp nhưng không còn khả năng tập hợp, lãnh đạo nhân dân kháng chiến như trước. Mặt khác, đất nước ta tuy có nguy cơ bị xâm lăng, nhưng không tất yếu phải mất, nước nhà Nguyễn với những việc làm kể trên đã biến cái không tất yếu thành cái tất yếu. Do vậy, nhà Nguyễn phải chịu trách nhiệm trong việc nước ta rơi vào tay thực dân Pháp.

ko biết có đúng ko đấylimdim

TL
14 tháng 8 2020

Ngắn gọn là vì nhà Nguyễn ăn chơi sa đọa , chỉ lo đến chức vị của mình mà không lo cho nước và nhân dân .

Hậu quả của đường lối bảo thủ đó là đất nước bị xâm lăng , tài nguyên bị khai thác kiệt quệ , nhân dân sống trong cảnh đói khổ.