K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

5 tháng 9

Một ví dụ điển hình về một vật chịu tác dụng của lực và di chuyển nhưng lực đó không sinh công là khi bạn kéo một chiếc xe đồ chơi trên mặt bàn phẳng.

Giải thích:

  • Lực tác dụng: Khi bạn kéo chiếc xe đồ chơi trên mặt bàn phẳng, bạn tác dụng một lực kéo lên xe.
  • Di chuyển: Chiếc xe đồ chơi di chuyển từ vị trí này sang vị trí khác.
  • Lực không sinh công: Mặc dù lực bạn kéo tác dụng lên xe và xe di chuyển, nhưng trên mặt bàn phẳng, không có sự thay đổi trong chiều cao của chiếc xe (không có sự thay đổi về độ cao), và lực kéo chỉ làm chuyển động của xe mà không thực hiện công để thay đổi năng lượng của xe.

Lý do lực kéo không sinh công trong trường hợp này là vì trên mặt phẳng, không có sự thay đổi trong phương của lực và sự chuyển động của vật. Công của lực được tính bằng tích của lực với quãng đường và cos của góc giữa lực và hướng chuyển động. Trong trường hợp này, lực kéo có thể chỉ làm việc chống lại ma sát hoặc các yếu tố khác nhưng không chuyển đổi năng lượng thành công thực sự, đặc biệt nếu mặt bàn hoàn toàn phẳng và ma sát rất nhỏ hoặc không đáng kể.

3 tháng 9

Khi cọ xát cái thước thì nó sẽ mang điện tích âm do có nhiều electron, và khi đưa lại gần mảnh giấy, các electron trên thước sẽ đẩy các electron trên mảnh giấy ra xa, khi ấy thì mảnh giấy sẽ có điện tích dương tạm thời và bị hút. Sau đó khi điện tích của mảnh giấy được sắp xếp lại thì sẽ không còn hút được nữa

Hồi trước cũng hay ngồi nghịch thước nên mình có tìm hiểu sơ sơ :> cũng hay đó chứ

3 tháng 9

Cảm ơn a/c nhiều nhée

3 tháng 9

Để giải quyết bài toán này, chúng ta cần xem xét cách ánh sáng phản xạ qua gương phẳng khi gương quay.

Trường hợp a: Trục quay O đi qua điểm tới I

  1. Phân tích tình huống:

    • Giả sử gương phẳng M đang ở một góc với tia tới, và ánh sáng phản xạ theo định luật phản xạ (góc tới = góc phản xạ).
    • Khi gương quay quanh điểm tới I, mỗi điểm trên gương quay cùng một góc α (alpha) quanh điểm I.
  2. Tính toán góc quay của tia phản xạ:

    • Khi gương quay một góc α quanh điểm I, các góc tới và phản xạ thay đổi cùng với góc quay của gương.

    • Góc giữa tia tới và gương lúc đầu là góc tới (θ). Khi gương quay một góc α quanh điểm tới I, góc giữa tia tới và gương vẫn là θ (vì điểm tới không thay đổi).

    • Tia phản xạ cũng quay quanh điểm I một góc α.

    • Do định luật phản xạ (góc tới = góc phản xạ), và gương quay góc α quanh điểm tới, tia phản xạ sẽ quay một góc 2α so với vị trí ban đầu.

    Kết luận: Trong trường hợp này, khi gương quay quanh điểm tới I một góc α, tia phản xạ quay một góc 2α.

Trường hợp b: Trục quay O ở ngoài điểm tới I

  1. Phân tích tình huống:

    • Giả sử trục quay O nằm ngoài điểm tới I, nghĩa là gương quay quanh một trục không đi qua điểm tới.
  2. Tính toán góc quay của tia phản xạ:

    • Trong trường hợp này, khi gương quay một góc α quanh trục O, điểm tới I di chuyển cùng với gương, và góc tới có thể thay đổi.

    • Góc giữa tia tới và gương ban đầu là θ. Khi gương quay một góc α quanh trục O, góc giữa gương và tia phản xạ thay đổi, làm cho tia phản xạ quay một góc không thể tính trực tiếp từ α một cách đơn giản.

    • Để xác định góc quay chính xác của tia phản xạ, chúng ta cần áp dụng các phép toán phức tạp hơn về hình học và động học của ánh sáng trong không gian 3D.

    Kết luận: Trong trường hợp này, góc quay của tia phản xạ không đơn giản là 2α mà phụ thuộc vào cách gương quay và cấu trúc không gian. Tuy nhiên, trong thực tiễn, thường sử dụng các phần mềm hoặc tính toán chi tiết hơn để xác định chính xác.

Tóm lại, trong trường hợp gương quay quanh điểm tới I, tia phản xạ quay một góc 2α. Trong trường hợp gương quay quanh một trục ngoài điểm tới I, góc quay của tia phản xạ cần được tính toán cụ thể hơn dựa trên vị trí trục quay và cách ánh sáng phản xạ.

24 tháng 10 2023

Gọi nửa quãng đường là S

\(t_1\) là thời gian đi hết nửa quãng đường đầu

\(t_1=\dfrac{s}{12}\)

\(t_2\) là thời gian đi hết nửa quãng đường sau

\(t_2=\dfrac{S}{v_2}\)

\(v_{tb}=\dfrac{S+S}{t_1+t_2}=\dfrac{2S}{\dfrac{S}{12}+\dfrac{S}{v_2}}=8\) 

\(\Leftrightarrow\dfrac{2S}{\dfrac{S\left(12+v_2\right)}{12v_2}}=8\Leftrightarrow\dfrac{24v_2}{12+v_2}=8\Rightarrow v_2=6\) km/h

28 tháng 8

tính x,y,z 

x=3y=27z và 2x-3y+4z=48

 

27 tháng 8

Hiệu vận tốc là:

\(40-8=32\left(km/h\right)\)

Thời gian để gặp nhau là:

\(\dfrac{50}{32}=\dfrac{25}{16}\) (giờ)

Quãng đường xe đạp đi được là:

\(8\cdot\dfrac{25}{16}=12,5\left(km\right)\)

 Quãng đường xe máy đi được là:

\(40\cdot\dfrac{25}{16}=62,5\left(km\right)\) (đi từ A đến B rồi quay lại \(12,5km\))

\(\rightarrow\) Lần gặp nhau thứ nhất xảy ra tại vị trí cách A \(12,5km\)

Sau lần gặp nhau thứ nhất, xe máy tiếp tục đi từ vị trí gặp nhau \(12,5km\) từ A đến B xong quay lại

Thời gian để xe máy đi từ vị trí gặp nhau đến B và quay lại vị trí gặp nhau là:

\(\dfrac{50-12,5}{40}+\dfrac{50}{40}=\dfrac{87,5}{40}\) (giờ)

Quãng đường xe đạp đi được trong thời gian này là:

\(8\cdot\dfrac{87,5}{40}=17,5\left(km\right)\)

Quãng đường xe máy đi được trong thời gian này là:

\(40\cdot\dfrac{87,5}{40}=87,5\left(km\right)\) (đi từ A đến B rồi quay lại \(37,5km\))

\(\rightarrow\)Lần gặp nhau thứ hai xảy ra tại vị trí cách A \(17,5km\)