K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

DH
Đỗ Hoàn
CTVHS VIP
10 tháng 7

- dòng thơ có biện pháp tu từ liệt kê:

+ Dang Tay đón gió, gật đầu gọi trăng

+ Quả dừa- đàn lợn con nằm trên cao

- Tác dụng:

+ Miêu tả cụ thể, chi tiết

+ Tăng sức gợi hình, gợi cảm

+ Nhấn mạnh đặc điểm nổi bật

+ tạo nhịp điệu cho câu thơ

9 tháng 7

MK tham khảo nha!

Giải thích các bước giải: Biện pháp tu từ điệp thanh được tạo nên bằng cách lặp lại một loại âm tiết có cùng loại thanh điệu là thanh bằng vd như : Trong đoạn thơ các vần ưa , át , ai , a xuất hiện nhiều lần và kết hợp với việc sử dụng từ láy " xôn xao"," ngân nga " .

Tác dụng : Đem đến cho người đọc cảm nhận tinh tế về những lần sóng  biển du dưa từng đợt xô đẩy vào buổi trưa đầy nắng ở vùng quê một cách dịu dàng , nhẹ nhàng, và đó cũng là nơi mẹ nuôi của tác giả được xưng " tôi " ( Tố Hữu ) đã từng hoặc đang sinh sống . Điều đó gợi lên cho tác giả một thứ cảm xúc khó mà diễn tả , chỉ nói là " Mát rượi lòng ta , ngân nga tiếng hát " cũng đủ hiểu sự an tâm và thanh bình ở trong lòng tác giả khi về nơi đó .

4 giờ trước (9:09)

Trong đoạn thơ trên, biện pháp tu từ điệp vần được thể hiện qua sự lặp lại của âm vần "a" và "ưa" trong các từ "xưa", "trưa", "cát", "đưa", "ngân nga".

Tác dụng của biện pháp tu từ điệp vần này là:

Tạo nên sự hòa âm, nhịp nhàng và êm ái cho câu thơ.

Tăng cường tính nhạc và giai điệu của thơ, làm cho đoạn thơ trở nên mềm mại và du dương.

Nhấn mạnh và làm nổi bật lên hình ảnh và cảm xúc của đoạn thơ, đó là hình ảnh về một buổi trưa yên bình bên bãi cát và cảm giác mát mẻ, thư thái của tâm hồn.

Điệp vần cũng góp phần thể hiện tình cảm sâu sắc và nỗi nhớ quê hương da diết của tác giả. Qua đó, người đọc có thể cảm nhận được sự gắn kết và tình yêu thương của tác giả dành cho quê hương.

Câu 1 (2,0 điểm). Viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) phân tích hai nhân vật người tử tù trong đoạn trích ở phần đọc hiểu.Câu 2 (4,0 điểm). Trong văn bản Quả bàng hình trái tim, ở xà lim, hai người tử tù ấp ủ ước mơ về một ngày đất nước thống nhất, người mang giống bàng Phú Quốc về trồng ở Hà Nội, người chế biến quả bàng thành món quà ý nghĩa cho quê hương. Đến nay, tại...
Đọc tiếp

Câu 1 (2,0 điểm). Viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) phân tích hai nhân vật người tử tù trong đoạn trích ở phần đọc hiểu.

Câu 2 (4,0 điểm). Trong văn bản Quả bàng hình trái tim, ở xà lim, hai người tử tù ấp ủ ước mơ về một ngày đất nước thống nhất, người mang giống bàng Phú Quốc về trồng ở Hà Nội, người chế biến quả bàng thành món quà ý nghĩa cho quê hương. Đến nay, tại di tích Nhà tù Hỏa Lò, Hà Nội, cây bàng với những sản phẩm đặc trưng như: trà bàng lá nếp, bánh lá bàng, thạch bàng, khung ảnh lá bàng,... đã trở thành món quà ý nghĩa đối với du khách. Đó là minh chứng cho ước mơ của những người tử tù ấy đã trở thành hiện thực.

Viết bài văn nghị luận (khoảng 400 chữ) bàn về những giải pháp thể hiện lòng biết ơn của thế hệ trẻ với những giá trị tốt đẹp mà cha ông ta đã hy sinh cả cuộc đời để mang đến cuộc sống hòa bình hôm nay.

3
9 tháng 7

Bạn tham khảo:

           Hai nhân vật tử tù trong đoạn trích hiện lên đầy tính nhân văn và ý chí kiên cường trước cảnh ngục tù nghiệt ngã. Dù bị giam cầm trong hoàn cảnh tăm tối, đau đớn và khát nước, họ vẫn giữ được tâm hồn trong sáng, gợi nhớ về những ký ức tuổi thơ tươi đẹp bên cây bàng xanh mát đã biểu tượng của niềm hy vọng và tự do. Người tử tù trẻ tuổi thể hiện sự yếu đuối và đau đớn thể xác rõ ràng nhưng vẫn cố gắng kiềm chế, thể hiện ý chí chiến đấu không đầu hàng trước số phận. Trong khi đó, người tử tù lớn tuổi lại mang dáng dấp của sự an ủi, chia sẻ, luôn giữ sự lạc quan và tin tưởng vào tương lai tươi sáng của đất nước. Tình bạn và sự sẻ chia giữa họ tạo nên sức mạnh tinh thần to lớn, giúp họ vượt qua thử thách khắc nghiệt của nhà tù. Hình ảnh cây bàng, quả bàng chín vàng rơi vào xà lim như sự tiếp thêm sức sống, làm dịu đi nỗi khát, khắc họa rõ nét sức mạnh của thiên nhiên và niềm tin không bao giờ tắt trong lòng con người, dù trong hoàn cảnh ngặt nghèo nhất. Hai nhân vật tượng trưng cho ý chí và tình người bất diệt, là biểu tượng cho khát vọng sống và tự do của con người.

Hãy giúp mọi người biết câu trả lời này thế nào?


MT
9 tháng 7

Dung chatgpt

(4,0 điểm) Đọc đoạn trích sau:QUẢ BÀNG HÌNH TRÁI TIM (Tóm lược phần đầu: Cây bàng vươn cành tới gần song sắt xà lim, khiến hai người tử tù trong ngục nhớ lại những kỷ niệm tuổi thơ. Họ trò chuyện về trường lớp ngày xưa, nơi có cây bàng xanh mát che nắng trên sân trường. Dù đang trong hoàn cảnh tuyệt vọng, hình ảnh cây bàng và những ký ức ấy làm họ tươi cười, vơi bớt nỗi...
Đọc tiếp

(4,0 điểm) Đọc đoạn trích sau:

QUẢ BÀNG HÌNH TRÁI TIM

(Tóm lược phần đầu: Cây bàng vươn cành tới gần song sắt xà lim, khiến hai người tử tù trong ngục nhớ lại những kỷ niệm tuổi thơ. Họ trò chuyện về trường lớp ngày xưa, nơi có cây bàng xanh mát che nắng trên sân trường. Dù đang trong hoàn cảnh tuyệt vọng, hình ảnh cây bàng và những ký ức ấy làm họ tươi cười, vơi bớt nỗi đau).

Bỗng nhiên, người tử tù, từng là học sinh Hà Nội, rên khe khẽ:

– Ôi! Khát nước quá! Có lẽ, anh sắp ngất đây!

Đôi mắt người tử tù nhắm nghiền, nén cơn khát và đau đớn vết thương do kẻ thù tra tấn. Người tử tù trẻ tuổi ngả đầu vào bạn tù. Đôi mắt nhìn qua song sắt, thầm ước:

– Nếu không bị kẻ thù cùm chân thì ta vươn tay ra ngoài song sắt, hái một quả bàng chín vàng kia, vắt nước cho anh...

Cây bàng đã lớn lên bên song sắt nhà tù mấy chục năm. Tiếng hô của các tử tù trước khi ra pháp trường, ánh mắt chứa chan hy vọng của mỗi người tử tù thấm đẫm vào thân cây, vào từng nụ hoa bàng.

Lộp độp! Lộp độp! Bỗng nhiên, mấy quả bàng chín mọng rơi vào trong xà lim. Người tử tù trẻ tuổi kinh ngạc, tay run run nhặt quả bàng. Hai tay lẩy bẩy vắt nước từ cùi quả bàng vào miệng bạn tù. Đôi môi khô rạn, nứt nẻ dần dần mềm mại. Nước quả bàng thấm dần vào lưỡi... Đôi mắt mệt mỏi từ từ hé mở. Người tù trẻ tuổi lấy cùm ghè vỡ quả bàng, lấy nhân bên trong. Nhân quả bàng bùi ngậy giống nhân hạt lạc. Từ hôm ấy, quả bàng là nước uống, là cơm ăn của hai người tử tù. Sức khỏe của hai người tử tù hồi phục. Hai người vẫn dựa lưng vào nhau, kể cho nhau nghe những kỷ niệm về cây bàng giữa sân trường yêu dấu của mình.

Người tử tù lớn tuổi rất ngạc nhiên thấy quả bàng rơi vào xà lim mang hình trái tim của người. Lạ nhỉ?

– Gió biển Phú Quốc mạnh mẽ. Gió nắn trái bàng thành hình trái tim để hướng xuống mặt đất?

– Cây bàng trên đảo thấu hiểu khát vọng của biết bao người tử từ. Từ đó, quả bàng mang hình trái tim, hệt trái tim con người?

Một buổi chiều, tên cai ngục đi qua các xà lim tử tù. Mắt hắn vằn hệt mắt thú dữ nhìn vào trong xà lim. Đôi mắt vằn đỏ vì ngạc nhiên:

– Bảy ngày qua, ta không cho những tên tử tù ăn cơm hẩm, uống nước cống, nhằm để chúng chết khô đét trong ngục. Nhưng vì sao, chúng nó vẫn tươi tắn như cây được tưới nước mưa nhỉ?

Rào... rào... rào... Từ trên cành cao, những quả bàng hướng mũi nhọn đầu trái tim, phóng tới tấp xuống tên cai ngục, Bị tấn công bất ngờ, tên cai ngục hoảng hốt bỏ chạy.

Đàn chim sáo đậu trên cành bàng hót nhặng lên:

– Đáng đời kẻ ác! Quả bàng bé nhỏ đã làm cho kẻ ác khiếp sợ!

Bên ngoài biển, sóng ào ào vỗ vào chân đảo. Bên trong xà lim, hai người tử tù bàn chuyện xa xôi:

– Bao giờ đất nước thống nhất, trở về Hà Nội, anh mang giống bàng Phú Quốc, trồng một hàng trong công viên!

– Em lấy nhân quả bàng, chế biến thành món mứt tết tặng cho tất cả du khách đến thăm vịnh Hạ Long, quê em. Nước quả bàng thì đóng hộp, tặng các cháu mẫu giáo được cô giáo phát phiếu “Bé ngoan” ngày cuối tuần.

Vào một ngày biển động. Bọn người mắt vằn như mắt thú dữ hì hục chặt hạ cây bàng bên ngoài song sắt. Chúng xông vào xà lim. Hai người tử tù đều nắm trong tay một quả bàng hình trái tim. Người tử tù bị bịt mắt, lôi đi là người muốn tất cả nhân quả bàng trên đời hóa thành mứt tết ngọt ngào tặng cho nhân loại.

Thời gian trôi theo mặt trời trên biển Việt Nam. Tên cai ngục mắt vằn hung dữ, trở lại di tích nhà tù Phú Quốc. Đôi mắt già nua bối rối nhìn qua song sắt xà lim. Trong xà lim, hiện lên mô hình sống động hai người tử tù dựa lưng vào nhau. Cây bàng ngoài song sắt bị chặt hạ, từ phần gốc nảy lên một mầm bàng non tươi xanh. Mầm bàng non ấy, bây giờ đã hóa thân thành cây bàng già, lưng gù theo năm tháng. Bên gốc bàng, ló dạng căn nhà nhỏ xinh xắn. Bước ra cửa là một người tử tù năm xưa.

– Nào, hãy thưởng thức món mứt nhân quả bàng. Đây là món quà mà bạn tôi muốn làm quà cho mọi người trên Trái đất này!

Đôi mắt vằn năm xưa của người cai ngục, nay chuyển sang màu xám ngoét. Những giọt nước mắt chảy ngoằn ngoèo theo hai bên sống mũi gồ ghề.

(Lê Toán, Tuyển tập truyện viết cho thiếu nhi, NXB Văn học, 2008)

Thực hiện các yêu cầu:

Câu 1 (0,5 điểm). Xác định ngôi kể và chỉ ra dấu hiệu hình thức của ngôi kể đó trong văn bản trên.

Câu 2 (0,5 điểm). Chỉ ra lời người kể chuyện và lời nhân vật trong các câu văn sau:

Đàn chim sáo đậu trên cành bàng hót nhặng lên:

– Đáng đời kẻ ác! Quả bàng bé nhỏ đã làm cho kẻ ác khiếp sợ!

Câu 3 (1,0 điểm). Nêu tác dụng của biện pháp tu từ nhân hóa trong câu văn sau:

Từ trên cành cao, những quả bàng hướng mũi nhọn đầu trái tim, phóng tới tấp xuống tên cai ngục.

Câu 4 (1,0 điểm). Nhan đề văn bản Quả bàng hình trái tim có ý nghĩa gì?

Câu 5 (1,0 điểm). Những quả bàng mang hình trái tim rơi vào xà lim đã giúp người chiến sĩ vượt qua hoàn cảnh tù đày nghiệt ngã. Vậy chúng ta cần làm gì đề vượt qua những khó khăn, thử thách trong cuộc sống?

1
10 tháng 7

Câu1:

  • Ngôi kể: Ngôi thứ ba.
  • Dấu hiệu: Người kể xưng "hắn", "họ", "hai người tử tù" và biết mọi suy nghĩ, hành động của nhân vật mà không xưng "tôi".Câu 2 (0,5 điểm)

Câu 2:

  • Lời người kể chuyện: "Đàn chim sáo đậu trên cành bàng hót nhặng lên:"
  • Lời nhân vật: "– Đáng đời kẻ ác! Quả bàng bé nhỏ đã làm cho kẻ ác khiếp sợ!"

Câu 3:

  • Tác dụng của biện pháp nhân hóa: Khiến quả bàng trở nên sống động, có ý chí, sức mạnh. Nhấn mạnh sự phản kháng mạnh mẽ của thiên nhiên và những điều tốt đẹp (biểu tượng của sự sống, hy vọng) trước cái ác, cái xấu. Tạo bất ngờ và gây ấn tượng về sức mạnh của chính nghĩa.

Câu 4:

Nhan đề "Quả bàng hình trái tim" mang ý nghĩa:

  • Nghĩa tả thực: Quả bàng có hình dáng giống trái tim (chi tiết kỳ ảo).
  • Nghĩa biểu tượng:
    • Tình yêu thương, sự sẻ chia: Biểu tượng cho tình cảm giữa những người tù, sự đồng cảm của thiên nhiên.
    • Sự sống và niềm hy vọng: Quả bàng là nguồn sống, giúp người tù vượt qua cái chết, giữ vững niềm tin vào tương lai thống nhất đất nước.
    • Lòng căm thù cái ác: Quả bàng còn thể hiện tinh thần chống đối kẻ thù.

    Câu 5:

    Để vượt qua khó khăn, thử thách trong cuộc sống, chúng ta cần:

    • Giữ vững niềm tin và ý chí kiên cường.
    • Trân trọng những điều nhỏ bé, tích cực.
    • Phát huy tình yêu thương và sự sẻ chia.
    • Luôn lạc quan và nuôi dưỡng ước mơ, khát vọng.
    • Xem khó khăn là cơ hội để học hỏi và trưởng thành.
7 tháng 7

Nhân vật Tử Hư trong truyện “Tử Hư du tiên” là hình tượng tiêu biểu cho khát vọng vượt thoát trần tục, tìm đến cõi tiên để đạt tới sự tự do tuyệt đối của con người trong văn học phương Đông. Tử Hư mang vẻ đẹp của một con người thanh cao, thoát tục, không bị ràng buộc bởi lợi danh hay những ham muốn tầm thường của thế gian. Khi đến thăm Lô Sơn, Tử Hư thể hiện lòng ham mê khám phá, yêu thiên nhiên và luôn khao khát tìm đến những điều cao đẹp, huyền diệu. Tuy nhiên, điều khiến Tử Hư trở nên đáng quý là ở chỗ, sau hành trình gặp gỡ và đàm đạo với vị tiên, ông đã nhận ra rằng “đạo tiên” không phải là thứ có thể cưỡng cầu mà phải tự giác ngộ. Cuối cùng, ông quay trở về trần thế, nhưng không còn vướng bận bụi trần, mà sống một đời ung dung, tự tại, giữ được sự an nhiên trong tâm hồn. Tử Hư là biểu tượng cho vẻ đẹp của một tâm hồn thanh sạch, của con người biết sống hài hòa giữa mộng và thực, giữa lý tưởng và đời sống, đồng thời thể hiện triết lý sâu sắc của Lão Trang: sống thuận theo tự nhiên, buông bỏ để được tự do.

LG
7 tháng 7

Dưới ngòi bút tài hoa của nhà văn Nguyễn Dữ trong “Chuyện chức phán sự đền Tản Viên”, nhân vật Tử Hư hiện lên như một hình tượng rực rỡ về người trí thức thời phong kiến, mang trong mình vẻ đẹp của trí tuệ, bản lĩnh và tinh thần chính nghĩa. Là một thầy đồ nghèo nhưng giàu khí phách, Tử Hư không chỉ uyên bác mà còn can đảm đối mặt với thế lực ma quái mà không hề nao núng. Dẫu bị lôi vào chốn âm phủ đầy rẫy hiểm nguy, ông vẫn giữ được sự điềm tĩnh, sáng suốt và niềm tin vào công lý. Tử Hư mang vẻ đẹp của một con người trọng lẽ phải, không mưu cầu danh lợi, sống thanh cao giữa thời đại hỗn mang. Đặc biệt, ông còn là biểu tượng của sức mạnh tinh thần, dám đối mặt với điều phi lý, dám nói thẳng, nói thật giữa chốn u minh. Qua nhân vật này, Nguyễn Dữ không chỉ phản ánh khát vọng công lý mà còn ca ngợi nhân cách cao đẹp, khí chất bất khuất của người trí thức chân chính. Tử Hư là minh chứng cho sự chiến thắng của lẽ phải trước tà ác, là ánh sáng soi đường cho những tâm hồn thiện lương.

4 tháng 7

Câu 2: Dấu hiệu xác định nhân vật trữ tình

  • Dấu hiệu rõ ràng nhất là từ ngôi thứ nhất (“tôi”) xuất hiện xuyên suốt bài thơ:
  • Ngoài ra, những cảm xúc như “nao nức như hồi trẻ”, “quên cả màu hoa đại”… đều bộc lộ nội tâm và tình cảm sâu nặng của người trở về sau mười năm xa quê.

Câu 3: Đề tài và chủ đề của bài thơ

  • Đề tài: Nỗi xúc động của người con xa quê khi trở về làng cũ sau một thời gian dài.
  • Chủ đề: Tình yêu quê hương sâu nặng, sự gắn bó thiêng liêng với ký ức tuổi thơ và cảnh vật quê hương.

Câu 4: Cảm hứng chủ đạo của bài thơ

  • Cảm hứng hoài niệm và yêu thương sâu lắng: Tác giả hồi tưởng về những kỷ niệm xưa, thể hiện niềm xúc động khi thấy quê hương đổi thay mà vẫn giữ hồn cốt thân quen.

Câu 5: Từ ngữ, hình ảnh thể hiện tình yêu quê hương

  • “bước đường quê”, “hội hè”, “núi mỉm cười”, “ruộng vỡ đường cày”, “ngõ trải rơm”, “hoa đại”, “gạo tám thơm”…
  • Những hình ảnh này đều rất gần gũi, bình dị, gợi lên tình cảm tha thiết với quê hương.

Câu 6: Nội dung chính của bài thơ

  • Bài thơ là tâm sự của người con xa quê sau mười năm trở về, với biết bao xúc cảm trào dâng: vui mừng, xúc động, bồi hồi... Bằng những hình ảnh giản dị mà xúc động, tác giả thể hiện tình yêu quê hương sâu sắc và vẻ đẹp của ký ức tuổi thơ trong lòng mỗi người.

Ghi vb ra dc k ạ? Có j mik giúp ạ.

3 tháng 7

Bài thơ: Tình mẹ

Tác giả: Thích Nhật Tử

Dù con đếm được cát sông
Nhưng không đếm được tấm lòng mẹ yêu
Dù con đo được sớm chiều
Nhưng không đo được tình yêu mẹ hiền

Dù con đi hết trăm miền
Nhưng tình của mẹ vẫn liền núi non
Dù con cản được sóng cồn
Nhưng không ngăn được tình thương mẹ dành

Dù con đến được trời xanh
Nhưng không đến được tâm hành mẹ đi
Dù con bất hiếu một khi
Tình thương mẹ vẫn thầm thì bên con


Dù cho con đã lớn khôn
Nhưng tình mẹ vẫn vuông tròn trước sau.
Ôi tình mẹ tợ trăng sao
Như hoa hồng thắm một mầu thủy chung

Tình của mẹ lớn khôn cùng
Bao dung vạn loại dung thông đất trời.
Ôi tình mẹ đẹp tuyệt vời
Làm con hiếu thảo trọn đời khắc ghi

Ơn Cha lành cao như núi thái
Đức Mẹ hiền sâu tợ biển khơi
Dù cho dâng trọn cuộc đời
Cũng không trả hết ơn người sanh ra .

Đây là bài thơ Tình mẹ của Thích Nhật Tử, có gì thì bạn có thể giúp bạn ý ạ!

3 tháng 7

- Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã 

 + BPTT: So sánh 

  + Tác dụng: phép so sánh thể hiện sự dũng mãnh của con thuyền khi lướt sóng ra khơi, sự hồ hởi, tư thế tráng sĩ của trai làng biển

- Phăng mái chèo mạnh mẽ vượt trường giang

 + BPTT: Nhân hóa

 + Tác dụng: diễn tả đầy ấn tượng khí thế băng tới vô cùng dũng mãnh của con thuyền toát lên một sức sống tràn trề, đầy nhiệt huyết.

- Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng 

 + BPTT: So sánh ,ẩn dụ

 + Tác dụng: khiến cho cánh buồm mang hình ảnh của  hồn quê hương cụ thể gần gũi, đó là biểu tượng của làng chài quê hương. cánh buồm chính là linh hồn của làng chài

- Rướn thân trắng bao la thâu góp gió

 + BPTT: nhân hóa

 + Tác dụng: Phép nhân hóa “rướn thân trắng” kết hợp với các động từ mạnh: con thuyền từ tư thế bị động thành chủ động, cho thấy sức mạnh cùng khát khao hướng đến tương lai tươi đẹp

- Chiếc thuyền im bến mỏi trở về nằm / Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ 

 + BPTT: nhân hóa " im bến mỏi", ẩn dụ chuyển đổi cảm giác " Nghe chất muối"

 + Tác dụng: Biện pháp nhân hoá khiến người đọc hình dung rất rõ dáng vẻ nặng nề, thấm mệt của chiếc thuyền khi chậm chạp neo vào bến đỗ.Cách viết ẩn dụ  vừa gợi sự mệt nhọc thấm thìa của con thuyền vừa thể hiện được sự tinh tế tuyệt vời của nhà thơ, tưởng như Tế Hanh đồng cảm sâu sắc với cảm giác, cảm xúc của con thuyền

DH
Đỗ Hoàn
CTVHS VIP
2 tháng 7

TK:

Chiến tranh, một vết sẹo hằn sâu trong lịch sử nhân loại, luôn là đề tài cho những suy tư và tranh luận không ngừng. Câu nói "Trong chiến tranh, lý tưởng chỉ tồn tại trên giấy, người ta giết chóc vì sống sót" đã chạm đến một sự thật trần trụi và đầy khắc nghiệt của cuộc chiến, lột tả sự đối lập nghiệt ngã giữa những giá trị cao đẹp mà con người theo đuổi và bản năng sinh tồn nguyên thủy khi đứng trước lằn ranh sinh tử.

Thật vậy, khi tiếng súng nổ, khi cái chết cận kề, những lý tưởng về tự do, hòa bình, công lý hay độc lập dân tộc dường như trở nên xa vời, phi thực tế đối với người lính nơi tiền tuyến. Thay vào đó, mục tiêu duy nhất, ám ảnh và thôi thúc họ hành động chính là sự sống sót. Mọi lý tưởng, nếu có, cũng chỉ như những nét mực trên giấy, nhạt nhòa và vô nghĩa trước họng súng đang chĩa thẳng vào mình. Bản năng sinh tồn trỗi dậy mạnh mẽ, chi phối mọi hành động và suy nghĩ. Người ta chiến đấu không phải vì những khẩu hiệu hào nhoáng, mà vì muốn được sống thêm một ngày, được nhìn thấy ánh bình minh, được trở về với gia đình.

Sự tàn khốc của chiến tranh đã phơi bày một khía cạnh tăm tối của con người: để tồn tại, người ta có thể buộc phải làm những điều tàn nhẫn, vượt ra ngoài khuôn khổ đạo đức thông thường. Giết chóc không còn là hành động mang tính biểu tượng cho một lý tưởng cao cả, mà trở thành phương tiện để bảo vệ chính mình và đồng đội. Những chuẩn mực xã hội, những giá trị đạo đức mà chúng ta đề cao trong thời bình, dường như bị bào mòn, biến dạng bởi áp lực khủng khiếp của cái chết và sự hỗn loạn. Người lính, dù mang theo lý tưởng cao đẹp đến đâu khi bước vào cuộc chiến, cũng có thể bị biến thành những cỗ máy chiến đấu vô tri, chỉ biết tuân theo mệnh lệnh và tìm cách hạ gục đối phương để giành lấy cơ hội sống.

Tuy nhiên, liệu có phải lý tưởng hoàn toàn tan biến trong khói lửa chiến tranh? Hay nó vẫn âm ỉ cháy, trở thành ngọn đuốc dẫn lối cho những người lính? Thực tế cho thấy, ngay cả trong những hoàn cảnh khốc liệt nhất, vẫn có những người chiến đấu không chỉ vì sinh tồn mà còn vì một niềm tin sâu sắc vào lý tưởng. Chính lý tưởng về độc lập, tự do đã tiếp thêm sức mạnh cho những người lính, giúp họ vượt qua nỗi sợ hãi, chịu đựng gian khổ và hy sinh. Họ có thể giết chóc để sống sót, nhưng sâu thẳm trong tâm hồn, họ vẫn hướng về một tương lai tốt đẹp hơn, nơi những lý tưởng đó có thể được hiện thực hóa. Lý tưởng có thể không trực tiếp cầm súng, nhưng nó là động lực tinh thần to lớn, là niềm tin để người lính trụ vững trong cuộc chiến.