K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

Đề thi đánh giá năng lực

Xuân tóc đỏ-)))

16 tháng 9

Tình yêu là đề tài muôn thuở của văn chương. Tình yêu là một loại tình cảm đặc biệt trong tâm hồn mỗi người. Sự sống của tình yêu là nỗi nhớ. Nỗi nhớ trong tình yêu cũng đa sắc thái và nhiều cung bậc. Những sắc thái và cung bậc ấy được thể hiện rất đẹp qua hai trích đoạn trong Tương tư của Nguyễn Bính và Việt Bắc của Tố Hữu. Nguyễn Bính thì bày tỏ nỗi nhớ nhung trong tình yêu đôi lứa, Tố Hữu thì bày tỏ nỗi niềm da diết khôn nguôi với quê hương cách mạng biết bao nghĩa tình.

Cũng như các nhà thơ lãng mạn cùng thời, Nguyễn Bính say mê với đề tài tình yêu, nhưng tình yêu trong thơ Nguyễn Bính có một lối nói riêng. “Cái tôi” trong thơ Nguyễn Bính không nổi lên mà tan hòa vào không gian đồng quê bằng biện pháp ẩn dụ nhân hoá như trong ca dao:

 

“Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông

Một người chín nhớ mười mong một người

Gió mưa là bệnh của giời,

Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng”

Tâm trạng tương tư của chàng trai quê được bộc lộ trong bài thơ “Tương tư" thành những nhớ mong da diết, trĩu nặng. Nỗi niềm ấy được xem như một quy luật tự nhiên không thể cưỡng lại, một thứ “tâm bệnh” khó chữa của người đang yêu. Niềm mong nhớ gắn liền với khung cảnh làng quê khiến cho cả không gian như cũng nhuốm đầy nỗi tương tư.

Từ nỗi nhớ người yêu luôn thường trực, cháy bỏng trong lòng, cái tôi trữ tình suy ngẫm, liên tưởng, nhận diện nỗi nhớ. Người ta thường nói nỗi nhớ là sự sống của tình yêu, còn Nguyễn Bính thì quy kết thành bệnh. Cái bệnh kinh niên sinh ra từ tâm lí của con người, không ai nói mình yêu mà không nhớ, nhớ mà không yêu. Yêu là nhớ, đó là quy luật. Quy luật của lòng người cũng như quy luật của tự nhiên: “Gió mưa là bệnh của giời/ Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng”. Trời đất không thể không có gió mưa, sống không thể “không nhớ, không thương một kẻ nào”. Một sự thừa nhận thành thật, ý vị khẳng định tính tất yếu của thiên nhiên cũng như của tình yêu – lòng người.

Về nghệ thuật, nhà thơ sử dụng các hình ảnh sóng đôi: Đông - Đoài, gió - mưa, tôi - nàng… tô đậm khát vọng lứa đôi. Thể thơ lục bát cùng với các hình thức diễn đạt, cách dùng địa danh quen thuộc của ca dao dân ca khiến đoạn thơ có vẻ đẹp dung dị, duyên dáng dễ đi vào lòng người. Chất chân quê của hồn thơ Nguyễn Bính được biểu hiện rất tài tình, khiến đọc lên người ta cứ ngỡ ca dao chứ không phải thơ hiện đại, và mỗi người đều mượn nó để nói hộ lòng mình. Đó chẳng phải là những câu thơ bất hủ đó sao!

Thể thơ lục bát thấm đượm phong vị ca dao. Chất liệu ngôn từ trong bài “Tương tư" rất chân quê với những địa danh, thành ngữ gần gũi, cách tổ chức lời thơ độc đáo, sử dụng nhuần nhuyễn nhiều biện pháp tu từ: hoán dụ, nhân hoá, đối sánh, tăng tiến, khoa trương.

Như trên đã nói, tình yêu trong mỗi con người là một xúc cảm tuyệt vời, nỗi nhớ trong tình yêu cũng đa sắc thái, nhiều cung bậc. Nếu Nguyễn Bính giãi bày nỗi nhớ trong tình yêu đôi lứa thì Tố Hữu trong đoạn thơ này lại diễn tả niềm da diết khôn nguôi với Việt Bắc - quê hương cách mạng biết bao nghĩa tình:

“Nhớ gì như nhớ người yêu

Trăng lên đỉnh núi nắng chiều lưng nương

Nhớ từng bản khói cùng sương

Sớm khuya bếp lửa người thương đi về”

Suốt mười lăm năm “Từ khi kháng Nhật thuở còn Việt Minh” cho đến lúc cuộc kháng Pháp vĩ đại thắng lợi, cán bộ, chiến sĩ cách mạng đã gắn bó cùng đồng bào Việt Bắc đánh giặc “Bát cơm chấm muối, mối thù nặng vai… Bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng’’, nay chiến thắng trở về xuôi làm sao có thể quên những kỉ niệm sâu nặng như thế!

Tố Hữu đã diễn tả nỗi niềm thương nhớ day dứt, khôn nguôi của người đi kẻ ở cũng thường trực, da diết như trong nỗi nhớ của tình yêu đôi lứa vậy. Nhưng nỗi nhớ không dành riêng cho một đối tượng mà nỗi nhớ dành cho tất cả đồng bào và thiên nhiên Việt Bắc. Nỗi nhớ giăng mắc khắp không gian, lung linh bao kỉ niệm: Nhớ những đêm trăng treo trên đầu núi, những buổi chiều nắng toả vàng rộng khắp trên nương, những bản làng ảo mờ trong sương khói, đặc biệt là bóng dáng của “người thương đi về”quây quần bên bếp lửa mỗi đêm đông, cảnh – người quyện hoà thanh bình, yên ả, ấm áp.

“Việt Bắc" của Tố Hữu đã thể hiện nỗi nhớ đằm thắm, sâu nặng của người cán bộ kháng chiến dành cho Việt Bắc, trong đó chan hòa tình nghĩa riêng chung. Hiện lên trong nỗi nhớ ấy là hình ảnh chiến khu Việt Bắc thân thương, với cảnh vật bình dị mà thơ mộng, với nhịp sống đơn sơ mà êm đềm, đầm ấm. Thể thơ lục bát kết hợp nhuần nhuyễn chất cổ điển và chất dân gian, nhịp điệu linh hoạt uyển chuyển, âm hưởng tha thiết, ngọt ngào. Hình ảnh thơ giản dị mà gợi cảm, cách ví von quen thuộc mà vẫn độc đáo, cách tổ chức lời thơ với phép tiểu đối, phép điệp cân xứng, khéo léo đã khiến cho độc giả vô cùng ấn tượng bởi những giá trị mà bài thơ mang lại.

Tuy ra đời ở hai thời điểm khác nhau nhưng hai bài thơ đều đều thể hiện nỗi nhớ da diết, sâu nặng, sử dụng thể thơ lục bát điêu luyện. 

Song, bên cạnh đó, dù viết cùng về một đề tài nhưng giữa hai bài thơ vẫn có những điểm khác biệt. Bài thơ “Tương tư” là nỗi nhớ của tình yêu lứa đôi, gắn với không gian làng quê Bắc Bộ, vừa bày tỏ vừa “lí sự” về tương tư, với cách đối sánh táo bạo còn nỗi nhớ được thể hiện trong bài “Việt Bắc” là nỗi nhớ của tình cảm cách mạng, gắn với không gian núi rừng Việt Bắc, nghiêng hẳn về bộc bạch tâm tình, với cách ví von duyên dáng. 

Thơ là tiếng tơ lòng, mỗi khi rung động trước thiên nhiên, đất nước, con người, tiếng tơ ấy lại cất lên tiếng hát của tâm hồn làm xúc động biết bao người đọc. Cảm ơn các nhà thơ đã cho ta biết yêu, biết rung động trước cái đẹp của cuộc đời qua những trang thơ.
Bạn tham khảo nhé !!!

15 tháng 9

Nhân vật Xuân Tóc Đỏ trong tác phẩm "Chí Phèo" của Nam Cao là một hình mẫu tiêu biểu cho những người lao động nghèo khổ, không chỉ sống trong hoàn cảnh khắc nghiệt của xã hội phong kiến mà còn có tính cách nổi bật, đặc biệt là qua sự kiện hùng biện trước công chúng.

Hành động và Giọng điệu

Tại sự kiện hùng biện, Xuân Tóc Đỏ thể hiện một phong cách hùng hồn, tự tin với những hành động mạnh mẽ. Hành động của anh không chỉ đơn thuần là phát biểu mà là sự khẳng định vai trò của bản thân trong xã hội. Giọng điệu của Xuân Tóc Đỏ mạnh mẽ, sắc sảo, mang tính thuyết phục cao. Sự cuốn hút trong giọng nói giúp anh truyền tải được thông điệp của mình một cách rõ ràng và mạnh mẽ.

Lời lẽ và Lập luận

Lời lẽ của Xuân Tóc Đỏ mang tính chất thực tế và chân thực. Anh không ngại đề cập đến những vấn đề xã hội nhức nhối như bất công, áp bức mà bản thân cũng như những người xung quanh đang phải gánh chịu. Lập luận của anh được xây dựng trên cơ sở của thực tế cuộc sống, từ đó tạo nên sức thuyết phục mạnh mẽ với người nghe. Anh khéo léo kết hợp giữa lý lẽ và cảm xúc, vừa lý trí vừa thuyết phục.

Nhận xét về nhân vật Xuân Tóc Đỏ

Xuân Tóc Đỏ là hình mẫu của người trí thức trẻ, luôn khao khát cống hiến và làm phong phú thêm đời sống văn hóa - xã hội. Sự kiện hùng biện không chỉ thể hiện tài năng của anh mà còn cho thấy tinh thần phản biện xã hội, tinh thần đấu tranh cho công lý. Đằng sau vẻ bề ngoài đầy tự tin ấy, Xuân Tóc Đỏ còn mang trong mình nỗi đau và trăn trở về số phận của những người đồng cảnh ngộ. Từ đó, chính những yếu tố này đã tạo nên một nhân vật Xuân Tóc Đỏ vừa mạnh mẽ nhưng cũng đầy nhạy cảm và nhân văn.

Tóm lại, thông qua sự kiện hùng biện trước công chúng, Xuân Tóc Đỏ không chỉ khẳng định bản thân mà còn phản ánh sâu sắc những vấn đề xã hội, gợi mở một cái nhìn nhân văn về số phận con người trong xã hội đương thời.

7 tháng 9

cái câu trl của mik bn muốn nghe ko

25 tháng 8

 "Qua đèo ngang" và "Thu Vịnh" là hai bài thơ nổi tiếng của hai tác giả khác nhau trong văn học Việt Nam. Dưới đây là sự so sánh về điểm giống và khác nhau giữa hai bài thơ này:

Điểm Giống Nhau
  1. Chủ Đề: Cả hai bài thơ đều phản ánh tâm trạng của tác giả trước vẻ đẹp thiên nhiên và bày tỏ những cảm xúc sâu lắng cá nhân.

  2. Sử Dụng Hình Ảnh Thiên Nhiên: Cả "Qua đèo ngang" và "Thu Vịnh" đều sử dụng hình ảnh thiên nhiên để diễn tả cảm xúc và tâm trạng của tác giả. Hình ảnh thiên nhiên trong hai bài thơ đều mang tính chất hoài cổ và gợi ra một không gian tĩnh lặng.

  3. Tâm Trạng U Buồn: Cả hai bài thơ đều thể hiện một tâm trạng u buồn, tâm trạng của tác giả trước cảnh vật thiên nhiên, có sự hoài niệm và cảm xúc suy tư.

Điểm Khác Nhau
  1. Tác Giả và Thời Gian:

    • "Qua đèo ngang" được viết bởi Bà Huyện Thanh Quan vào thế kỷ 19. Bài thơ được viết trong bối cảnh cuộc hành trình của tác giả qua đèo ngang, thể hiện tâm trạng của một người phụ nữ trong thời kỳ phong kiến.
    • "Thu Vịnh" của Nguyễn Khuyến, một nhà thơ nổi tiếng của thế kỷ 19, nhưng viết trong bối cảnh và thời điểm khác. Bài thơ thể hiện tâm trạng của tác giả khi chứng kiến cảnh sắc mùa thu và cảm xúc của mình đối diện với thiên nhiên.
  2. Hình Ảnh và Đặc Trưng Thiên Nhiên:

    • "Qua đèo ngang" tập trung vào hình ảnh "đèo ngang" với cảnh vật hoang sơ, hùng vĩ. Cảnh vật trong bài thơ có sự kết hợp giữa vẻ đẹp hoang sơ và tâm trạng u uẩn của nhân vật trữ tình.
    • "Thu Vịnh" sử dụng hình ảnh mùa thu với "trời thu""cảnh sắc thu" để phản ánh tâm trạng của tác giả. Cảnh vật mùa thu trong bài thơ mang đến cảm giác nhẹ nhàng, thanh thản hơn.
  3. Tâm Trạng và Cảm Xúc:

    • "Qua đèo ngang" thể hiện sự u buồn và hoài niệm của tác giả khi đứng trước cảnh vật đèo ngang hùng vĩ. Bài thơ thể hiện nỗi cô đơn và tâm trạng xa lạ của một người lữ hành qua vùng đất mới.
    • "Thu Vịnh" diễn tả tâm trạng của tác giả khi cảm nhận vẻ đẹp mùa thu, với sự thư thái và chiêm nghiệm về cuộc sống và thời gian. Nguyễn Khuyến phản ánh tâm trạng của một người yêu thích sự yên tĩnh, thanh bình của mùa thu.
  4. Tâm Tư và Tầm Nhìn:

    • Trong "Qua đèo ngang", Bà Huyện Thanh Quan thể hiện tâm tư và cảm xúc cá nhân trước cảnh đẹp của thiên nhiên, có phần liên quan đến hoàn cảnh xã hội và cuộc sống của chính mình.
    • Trong "Thu Vịnh", Nguyễn Khuyến tập trung vào việc chiêm nghiệm vẻ đẹp thiên nhiên và cảm xúc của mình trong bối cảnh mùa thu, thể hiện sự sâu lắng và triết lý sống của một trí thức yêu thích thiên nhiên.
Tóm Tắt

Cả hai bài thơ đều sử dụng hình ảnh thiên nhiên để diễn tả cảm xúc và tâm trạng của tác giả. Tuy nhiên, chúng khác nhau về bối cảnh, hình ảnh thiên nhiên, và tâm trạng của tác giả. "Qua đèo ngang" phản ánh sự u buồn và cảm giác xa lạ trong khi "Thu Vịnh" thể hiện sự chiêm nghiệm và thư thái trước vẻ đẹp mùa thu.