K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

Câu 1 (2,0 điểm) Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) phân tích, đánh giá nhan đề “Đời khổ” của văn bản trong phần Đọc hiểu.Câu 2 (4,0 điểm) Trong chương trình Thủ tướng Chính phủ đối thoại với thanh niên Việt Nam năm 2025 (nhân dịp kỉ niệm 94 năm ngày thành lập Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh 26/03/1931 – 26/03/2025), Thủ tướng Phạm Minh Chính đã chia sẻ lời...
Đọc tiếp

Câu 1 (2,0 điểm)

Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) phân tích, đánh giá nhan đề “Đời khổ” của văn bản trong phần Đọc hiểu.

Câu 2 (4,0 điểm)

Trong chương trình Thủ tướng Chính phủ đối thoại với thanh niên Việt Nam năm 2025 (nhân dịp kỉ niệm 94 năm ngày thành lập Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh 26/03/1931 – 26/03/2025), Thủ tướng Phạm Minh Chính đã chia sẻ lời khuyên quý giá: “Tuổi trẻ hãy nỗ lực vượt qua giới hạn của chính mình để không ngừng cống hiến, đóng góp cho quê hương, đất nước.”. Thế nhưng trong xã hội hiện nay, bên cạnh những bạn trẻ biết vượt qua giới hạn của chính mình để tạo ra các giá trị bền vững vẫn còn một số bạn trẻ phô trương bản thân để thu hút sự chú ý nhất thời.

Từ góc nhìn của người trẻ, anh/chị hãy viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) trình bày suy nghĩ về vấn đề trên.

3
20 tháng 5

Đề bài rất hay. Dựa vào cái này để cãi nhau được rồi

20 tháng 5

À nhầm. Ko cãi nhau đâu. Giải thích cho người ta hiểu thôi. Xin lỗi mọi người vì đã nhắn nhưng câu từ ko hay nhé 😖😖😖

Đề thi đánh giá năng lực

(4,0 điểm) Đọc văn bản và thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5:ĐỜI KHỔ (Lược phần đầu: Năm 1961, vợ chồng nhân vật tôi được quân đội cấp cho một căn nhà nhỏ ở khu tập thể Phúc Xá, vùng đất nghèo ven sông Hồng. Dù điều kiện sống ban đầu còn thiếu thốn, họ vẫn cảm thấy hạnh phúc với mái ấm đầu tiên của riêng mình. Những kỉ niệm giản dị như bữa cơm đầu...
Đọc tiếp

(4,0 điểm) Đọc văn bản và thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5:

ĐỜI KHỔ

(Lược phần đầu: Năm 1961, vợ chồng nhân vật tôi được quân đội cấp cho một căn nhà nhỏ ở khu tập thể Phúc Xá, vùng đất nghèo ven sông Hồng. Dù điều kiện sống ban đầu còn thiếu thốn, họ vẫn cảm thấy hạnh phúc với mái ấm đầu tiên của riêng mình. Những kỉ niệm giản dị như bữa cơm đầu tiên, tình làng nghĩa xóm bắt đầu hình thành đã trở thành kí ức đẹp đẽ không thể quên với nhân vật tôi. Trong dòng kí ức, nhân vật tôi nhớ đến chị Vách – một người hàng xóm tại khu tập thể.)

Chị Vách hơn tôi một con giáp, răng đen và vấn khăn. Chồng chị là thiếu tá ở một học viện chính trị, hơn tôi khoảng mươi mười lăm tuổi. Cấp thiếu tá ngày ấy là to lắm, là mơ ước gần như viển vông của đám thượng úy lau nhau. Tên ông thiếu tá là gì tôi không rõ, mặt ông tôi cũng quên, chỉ nhớ mang máng một người đàn ông có bộ dạng rất đứng đắn, có thể rất tốt bụng, nhưng không làm một việc gì, nói một lời nào để dãy xóm được nhớ. Mỗi lần gặp tôi ở đường, một năm khoảng đôi ba lần, ông đều chào trước thân thiện và nhạt nhẽo: “Đồng chí khỏe không? Tốt chứ?”.

Với gia đình ấy vợ chồng tôi chỉ biết có chị Vách, ông thiếu tá chồng chị là ông Vách, các con chị một lũ lôi thôi, lốc thốc là con bà Vách. Chị Vách rất hợp chuyện với vợ chồng tôi, chị là người dưới quê mới theo chồng lên sống ở tỉnh, vợ tôi cũng thế. Chị là một cán bộ xã vùng địch hậu thời đánh Pháp, vợ tôi là du kích, rồi là dân công gùi gạo theo bộ đội suốt mấy chiến dịch. Hai chị em mỗi lần được ngồi với nhau là dứt không ra. Chuyện đàn bà không đầu không cuối nhưng chị Vách đã lên tiếng, mình lại chót dại để tai nghe là cứ phải nghe đến cùng. Hết cả đọc, hết cả viết. Vì nó vui lắm, buồn cười lắm, cười đến đau ruột, đến não lòng.

Tôi nói:

– Có một bà vợ vui tính như chị chắc ông ấy được cười cả ngày.

Chị Vách nói:

– Quân tử ẩn hình, tiểu nhân lộ tướng. Ông ấy vẫn phê bình tôi nói năng vô chính trị, không được chín chắn như các bà cán bộ ở tỉnh. Người ta có trình độ cao lỡ lấy phải vợ dại cũng là khổ tâm lắm. Thời trước thì họ đuổi mình ra đường rồi. Giàu vì bạn, sang vì vợ, có một bà vợ như tôi ông chồng cũng hoá hèn, chị nói thế. Nên không bao giờ chị dám đi cùng chồng ra ngoài, đến thăm ai chồng đạp xe tới trước, vợ đi bộ tới sau, không xem hát, không xem chiếu bóng, chưa bao giờ tôi thấy vợ chồng họ đi sóng đôi cả. Mà chị đâu có xấu, là một phụ nữ xinh đẹp của một thời, gương mặt tươi tắn, cái miệng với hàm răng đen đều đặn khi nói khi cười duyên dáng lạ lùng. [...]

Chị Vách không biết chữ, đã là cán bộ phụ nữ xã mà không biết chữ, chỉ vạch được một chữ V thay chữ kí thôi. Một mình chị suốt những năm đánh Pháp vừa nuôi hai con, vừa nuôi mẹ chồng, mẹ ốm một mình chị chăm sóc, lúc chết một mình chị chôn cất ma chay. Mà vẫn không dám coi là có công, làm dâu, làm vợ, làm mẹ ắt phải thế, từ thời xửa thời xưa đã vẫn là thế. Chị đẻ hai đứa con gái đầu, ông chồng vắng nhà vì phải đi đánh giặc. Đẻ hai đứa con trai sau, ông chồng cũng vắng mặt nốt vì phải đi công tác. Chị sanh không được thuận vì đã lớn tuổi, lúc sát nhau, lúc băng huyết, chỉ có bạn bè tới thăm hỏi giúp đỡ, nằm dăm bảy ngày lại bò dậy ôm con ra viện, vài ngày sau đã giặt giũ cơm nước, da mặt vàng ủng nhưng nụ cười vẫn tươi tắn. Nghe chị nói nhà chị có sáu người nhưng hai mâm. Chồng một mâm, năm mẹ con một mâm riêng. Tiền nong chia đôi, tiêu cho chồng một nửa, năm mẹ con một nửa. Chị bảo, anh ấy phải làm việc trí óc nhiều, lại cao tuổi, lại lắm thứ bệnh không bồi dưỡng là nguy ngay. Còn năm mẹ con chị sao cũng được, nông dân vốn nuôi dễ. Tôi nói: “Bà cứ bày vẽ, ông ấy không là nông dân thì là cái gì, là trí thức hả?”. Chị cười rất tươi: “Ông ấy học cao lắm chú ạ, một rương vàng không bằng một nang chữ. Một đời chỉ biết đánh giặc với đọc sách thôi.”. Tôi hỏi: “Ông ấy cũng được đi học à?”. Chị có vẻ giận: “Con địa chủ không được đi học thì ai được học. May mà ông bố đã phá tan hết cơ nghiệp, nếu không cũng bị đấu hồi cải cách rồi.”. [...]

Chị Vách không biết chữ nên chị làm cấp dưỡng một bếp ăn tập thể của quân đội. Chị đi làm rất sớm và về rất muộn. Khi đi gánh đôi thùng không, khi về một bên là nước vo gạo, một bên là cơm thừa của bếp ăn tập thể. Cơm nước lợn gà, hầu bố và trông các em trong một ngày chị đều phó mặc cho đứa con gái đầu. Một người vác cái cày bảy người vác muỗng như chị thường nói. Năm tôi về ở Phúc Xá thì đứa con gái lớn của chị đã mười bốn, mười lăm tuổi. Con bé không được xinh, da đen, chân tay lòng khòng, cả ngày không nghe nó nói một câu, cứ lầm lì làm, hết làm thì lầm lì đứng một góc giương mắt nhìn xung quanh. Giống tính ông bố như hệt, nhưng nó không được học như bố nó, biết đọc biết viết là thôi vì đông em quá. Tôi hỏi chị Vách: “Tại sao chị không cho cháu đi học?”.

Chị nói:

– Con gái cần gì học nhiều.

– Ông ấy không bắt nó đi học à?

Lại thêm một dịp để chị khoe chồng:

– Về đến nhà là vùi đầu vào đọc sách đọc báo, không hỏi đến vợ con được một câu.

Tôi cười to: “Ông ấy cũng sướng nhỉ, sướng nhất khu đấy.”. Chị cũng cười: “Người khôn nhọc lo, người dại ăn no lại nằm. Tôi mới là người sướng chứ chú.”. Nói đến thế là hết.

(Lược phần cuối: Sau nhiều năm rời khu tập thể, nhân vật tôi trở lại thăm nơi này và chứng kiến cuộc sống của chị Vách càng khốn khó hơn: ông chồng mất, hai đứa con gái quá lứa lỡ thì không lấy chồng, một đứa con trai ngẩn ngơ điên dại. Lương hưu thấp nên dù đã bảy mươi tuổi chị Vách vẫn phải vất vả mưu sinh, làm xôi bán để có thêm tiền lo cho các con. Chị tự nhận vì mình ngu đần, vụng dại nên con cái mới vậy, nếu chồng chị còn sống thì chúng nó đâu đến nỗi. Suy nghĩ của chị khiến nhân vật tôi cổ tắc nghẹn lại, muốn bật khóc.)

(Nguyễn Khải, Đời khổ, in trong Tuyển tập Nguyễn Khải, NXB Văn hoá thông tin, 2014, tr. 190 – 192)

* Chú thích: Sát nhau (hay sót rau): chỉ tình trạng sót nhau thai sau khi sinh con – một biến chứng sản khoa nguy hiểm.

Câu 1. Xác định ngôi kể và điểm nhìn của truyện ngắn trên.

Câu 2. Chỉ ra những từ ngữ, hình ảnh miêu tả vẻ đẹp ngoại hình của chị Vách.

Câu 3. Phân tích hiệu quả nghệ thuật của biện pháp tu từ liệt kê trong các câu văn sau: “Một mình chị suốt những năm đánh Pháp vừa nuôi hai con, vừa nuôi mẹ chồng, mẹ ốm một mình chị chăm sóc, lúc chết một mình chị chôn cất ma chay. Mà vẫn không dám coi là có công, làm dâu, làm vợ, làm mẹ ắt phải thế, từ thời xửa thời xưa đã vẫn là thế.”.

Câu 4. Nêu vai trò của chi tiết “Chị cười rất tươi: “Ông ấy học cao lắm chú ạ, một rương vàng không bằng một nang chữ. Một đời chỉ biết đánh giặc với đọc sách thôi”.”.

Câu 5. Từ câu nói của chị Vách “Người khôn nhọc lo, người dại ăn no lại nằm. Tôi mới là người sướng chứ chú.”, anh/ chị suy nghĩ gì về cách để con người vượt qua khi phải đối diện với những nhọc nhằn, vất vả trong cuộc sống?

3
20 tháng 5

Bài này cũng hay như bài trước

20 tháng 5

Cô kết bạn với em đi ạ! Em muốn đọc thêm nhiều văn thơ lắm á 😁😁😁

21 tháng 5

Dưới đây là gợi ý làm bài cho hai câu hỏi của bạn:


Câu 1: Viết đoạn văn cảm nhận về hình ảnh mẹ Hải âu (khoảng 200 chữ)

Hình ảnh mẹ Hải âu trong văn bản hiện lên thật gần gũi, thân thương và đầy tình mẫu tử thiêng liêng. Mẹ Hải âu không chỉ là người dẫn dắt, bảo vệ mà còn là biểu tượng của sự hy sinh và tình yêu thương vô bờ bến dành cho con. Dù biết rằng con sẽ phải đối mặt với bao hiểm nguy khi lao xuống biển rộng lớn, mẹ vẫn kiên nhẫn dạy dỗ, truyền cho con sức mạnh và niềm tin vào cuộc sống. Hình ảnh mẹ Hải âu không chỉ thể hiện sự lo lắng, quan tâm mà còn là nguồn động viên tinh thần lớn lao, giúp con vững bước trên hành trình trưởng thành. Qua đó, tác giả đã khắc họa một cách sinh động tình mẫu tử thiêng liêng, đồng thời gửi gắm thông điệp về sự dấn thân và tự lập trong cuộc đời mỗi người. Mẹ Hải âu chính là biểu tượng của sự che chở và khích lệ để con tự tin bay xa, tự mình khám phá thế giới rộng lớn.


Câu 2: Bài văn nghị luận về ý nghĩa của việc dấn thân và tự lập trong hành trình trưởng thành (khoảng 600 chữ)

Mở bài:

Trong bài thơ “Lời của chim hải âu”, Nguyễn Đình Tâm đã gửi gắm một thông điệp sâu sắc về hành trình trưởng thành của con người, đặc biệt là những người trẻ: phải dấn thân và tự lập để có thể sống thật sự, sống có ý nghĩa. Những câu thơ “con phải lao xuống biển / có thể gặp vô vàn hiểm nguy / nhưng con phải sống / con sẽ sống / và con tự sống” đã khắc họa rõ nét tinh thần ấy.

Thân bài:

Trước hết, việc dấn thân là bước đi đầu tiên và quan trọng nhất trong quá trình trưởng thành. Dấn thân có nghĩa là không ngại khó khăn, thử thách, dám đối mặt với những nguy hiểm, rủi ro để khám phá và chinh phục thế giới. Giống như chim hải âu phải lao xuống biển rộng lớn đầy sóng gió, mỗi người trẻ cũng cần mạnh dạn bước ra khỏi vùng an toàn của bản thân, không ngừng học hỏi, trải nghiệm để phát triển năng lực và bản lĩnh. Nếu chỉ đứng yên một chỗ, ta sẽ mãi không thể trưởng thành và hoàn thiện chính mình.

Tiếp theo, tự lập là yếu tố then chốt giúp mỗi người trẻ xây dựng cuộc sống độc lập, tự chủ và có trách nhiệm. Tự lập không chỉ là khả năng tự lo cho bản thân về vật chất mà còn là sự tự tin trong tư duy, trong các quyết định và hành động của mình. Khi tự lập, người trẻ sẽ biết cách giải quyết khó khăn, vượt qua thử thách mà không phụ thuộc vào người khác. Điều này giúp họ trưởng thành toàn diện về mặt nhân cách và tinh thần.

Hơn nữa, dấn thân và tự lập còn giúp người trẻ hình thành ý chí kiên cường, tinh thần lạc quan và khả năng thích nghi với môi trường sống luôn biến đổi. Trong xã hội hiện đại đầy biến động, chỉ có những người biết dấn thân và tự lập mới có thể vững vàng, phát triển và đóng góp tích cực cho cộng đồng. Đây cũng chính là nền tảng để họ xây dựng một cuộc đời ý nghĩa, thành công và hạnh phúc.

Kết bài:

Tóm lại, dấn thân và tự lập là hai yếu tố không thể thiếu trong hành trình trưởng thành của mỗi người trẻ. Qua hình ảnh chim hải âu lao xuống biển, Nguyễn Đình Tâm đã truyền cảm hứng mạnh mẽ về tinh thần dám sống, dám đương đầu với thử thách và tự mình làm chủ cuộc đời. Mỗi người trẻ hãy luôn ghi nhớ và thực hành thông điệp ấy để trở thành phiên bản tốt nhất của chính mình, góp phần xây dựng tương lai tươi sáng.


Nếu bạn cần, tôi có thể giúp bạn chỉnh sửa hoặc mở rộng bài viết theo yêu cầu cụ thể hơn.


(4,0 điểm) Đọc văn bản và thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5: LỜI CỦA CHIM HẢI ÂU Không có một loài chim nào tự đẩy con mình                               từ vách núi cao xuống biển Con yêu thương chỉ có mẹ Hải âu thôi đã đến lúc mẹ phải đẩy con rời tổ ẩm con đừng rúc vào ngực mẹ đừng nhìn vào ngấn ướt trong mắt mẹ con...
Đọc tiếp

(4,0 điểm) Đọc văn bản và thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5:

LỜI CỦA CHIM HẢI ÂU

Không có một loài chim nào tự đẩy con mình
                               từ vách núi cao xuống biển
Con yêu thương
chỉ có mẹ Hải âu thôi
đã đến lúc mẹ phải đẩy con rời tổ ẩm
con đừng rúc vào ngực mẹ
đừng nhìn vào ngấn ướt trong mắt mẹ
con phải lao xuống biển
có thể gặp vô vàn hiểm nguy
nhưng con phải sống
con sẽ sống
và con tự sống
đó là bản năng tự tin của lòng dũng cảm
là môi trường sống duy nhất của con
của loài Hải âu chúng ta
nơi đó sẽ có những ngư dân
có những người thủy thủ
bạn tốt của chúng ta
họ sẽ chào đón con như những chiến binh quả cảm
họ yêu quý con bằng tình yêu biển cả
nơi đó con có cả bầu trời tự do
thoả niềm đam mê, khao khát

Nào, con yêu thương của mẹ!
bắt đầu nhé
lao xuống
tung cánh ra
đập cánh
Và tôi đặt cược đời mình theo những cánh Hải âu

(Nguyễn Đình Tâm, viết & đọc, chuyên đề mùa hè 2024, NXB Hội Nhà văn, 2024, trang 233)

Câu 1. Chỉ ra dấu hiệu để xác định thể thơ của văn bản.

Câu 2. Theo văn bản, mẹ Hải âu có hành động gì khác biệt so với các loài chim khác?

Câu 3. Anh/ Chị hiểu như thế nào về lời của mẹ Hải âu qua các dòng thơ: “con đừng rúc vào ngực mẹ/ đừng nhìn vào ngấn ướt trong mắt mẹ/ con phải lao xuống biển?”.

Câu 4. Nêu hiệu quả nghệ thuật của phép tu từ so sánh trong dòng thơ: “họ sẽ chào đón con như những chiến binh quả cảm”.

Câu 5. Ý thơ “Và tôi đặt cược đời mình theo những cánh Hải âu” gợi cho anh/ chị suy nghĩ gì? (trả lời khoảng 5 – 7 dòng)

4
20 tháng 5

Cũng hay

20 tháng 5

trả lời chứ sao lại hay ?


19 tháng 5

Content words main verbs, noun, adjectives and adverbs are often stress, while grammatical words conjunction, pronoun, preposition, auxiliaries verbs and article are not.

20 tháng 5

hi

19 tháng 5

Yes/No question (rising at the end of the sentence

Wh-qs (falling at the end of the sentence)

Choice questions (rising on each choice before the word "or" falling at the end of the sentence.

Question tags (falling on question tag when almost sure of the answer. rising on the question tags, when not sure of the answer)

19 tháng 5

Yes/No question (rising at the end of the sentence

Wh-qs (falling at the end of the sentence)

Choice questions (rising on each choice before the word "or" falling at the end of the sentence.

Question tags (falling on question tag when almost sure of the answer. rising on the question tags, when not sure of the answer)

21 tháng 5

Dưới đây là gợi ý trả lời hai câu nghị luận của bạn:


Câu 1 (2,0 điểm): Viết đoạn văn (khoảng 200 chữ) phân tích diễn biến tâm trạng của nhân vật “tôi” trong đoạn trích

Trong đoạn trích, diễn biến tâm trạng của nhân vật “tôi” được thể hiện tinh tế qua từng cung bậc cảm xúc. Ban đầu, “tôi” mang trong mình cảm giác hồi hộp, lo lắng, thậm chí có phần tự ti trước hoàn cảnh hoặc sự kiện đang diễn ra. Những suy nghĩ, trăn trở nội tâm khiến “tôi” trở nên nhạy cảm với mọi thay đổi xung quanh. Khi đối diện với sự vật, sự việc hoặc con người có ý nghĩa đặc biệt, tâm trạng “tôi” chuyển sang bối rối, xen lẫn niềm vui và sự xúc động. Đặc biệt, khi nhận ra giá trị của những điều giản dị, gần gũi, “tôi” cảm thấy hạnh phúc, biết ơn và trân trọng hơn cuộc sống. Diễn biến tâm trạng ấy không chỉ phản ánh chiều sâu nội tâm mà còn cho thấy sự trưởng thành, thức tỉnh trong nhận thức của nhân vật. Qua đó, tác giả gửi gắm thông điệp về sự trân trọng những điều bình dị, về giá trị của cảm xúc chân thành trong cuộc sống.


Câu 2 (4,0 điểm): Nghị luận (khoảng 600 chữ) về văn hóa ứng xử nơi công cộng của thế hệ trẻ ngày nay

Trong xã hội hiện đại, văn hóa ứng xử nơi công cộng là thước đo quan trọng đánh giá ý thức và nhân cách của mỗi con người, đặc biệt là thế hệ trẻ. Trong những ngày cả nước tưng bừng kỉ niệm 50 năm ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, chúng ta càng tự hào về truyền thống dân tộc, càng nhận thấy rõ hơn vai trò của văn hóa ứng xử trong việc xây dựng hình ảnh con người Việt Nam văn minh, hiện đại.

Tuy nhiên, bên cạnh những câu chuyện đẹp về lòng yêu nước, sự đoàn kết, vẫn còn không ít hành vi ứng xử thiếu văn hóa nơi công cộng. Đó có thể là việc chen lấn, xô đẩy ở nơi đông người; nói chuyện lớn tiếng, thiếu tôn trọng không gian chung; xả rác bừa bãi, phá hoại của công; hay thậm chí là những hành động thiếu lịch sự trên mạng xã hội. Những hành vi ấy không chỉ làm xấu đi hình ảnh cá nhân mà còn ảnh hưởng đến cộng đồng, gây mất trật tự, văn minh nơi công cộng.

Từ trải nghiệm cá nhân, tôi nhận thấy rằng, mỗi người trẻ đều có thể góp phần xây dựng văn hóa ứng xử tốt đẹp bằng những hành động nhỏ nhưng ý nghĩa. Đó là việc xếp hàng trật tự khi mua vé, giữ gìn vệ sinh chung, nói lời cảm ơn, xin lỗi đúng lúc, hay đơn giản là mỉm cười thân thiện với người xung quanh. Những hành động ấy, dù nhỏ bé, nhưng lại lan tỏa giá trị tích cực, góp phần xây dựng một xã hội văn minh, lịch sự.

Văn hóa ứng xử nơi công cộng không chỉ thể hiện trình độ nhận thức mà còn là biểu hiện của lòng tự trọng và trách nhiệm với cộng đồng. Thế hệ trẻ ngày nay cần nhận thức rõ rằng, mỗi hành động, lời nói của mình đều góp phần tạo nên diện mạo xã hội. Việc giữ gìn và phát huy văn hóa ứng xử không chỉ là nghĩa vụ, mà còn là niềm tự hào của mỗi người Việt Nam.

Để xây dựng văn hóa ứng xử nơi công cộng, ngoài ý thức tự giác của mỗi cá nhân, rất cần sự phối hợp của gia đình, nhà trường và xã hội trong việc giáo dục, nhắc nhở, xây dựng các chuẩn mực ứng xử phù hợp. Chỉ khi mỗi người trẻ đều ý thức được vai trò của mình, chúng ta mới có thể xây dựng một môi trường sống lành mạnh, văn minh, góp phần khẳng định vị thế của dân tộc trên trường quốc tế.

Tóm lại, văn hóa ứng xử nơi công cộng là yếu tố then chốt làm nên một xã hội phát triển bền vững. Thế hệ trẻ hãy là những người tiên phong, lan tỏa những giá trị tốt đẹp, góp phần xây dựng hình ảnh Việt Nam văn minh, hiện đại trong mắt bạn bè quốc tế.


Nếu bạn cần chỉnh sửa cho phù hợp với đoạn trích cụ thể hoặc muốn mở rộng thêm ý, hãy cho mình biết nhé!

(4,0 điểm) Đọc văn bản và thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5:Thổn thức gió đồng(Dương Giao Linh) Lược một đoạn: Truyện là dòng kí ức của cậu bé tên Lâm, Lâm không sinh ra ở làng nhưng lớn lên ở làng – một vùng ốc đảo hoang vắng với vẻ đẹp nguyên sơ, bình dị. Làng của Lâm trải qua những xáo trộn trong thời kì phát triển kinh tế, dẫn đến nhiều bất ổn... Dì Lam...
Đọc tiếp

(4,0 điểm) Đọc văn bản và thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5:

Thổn thức gió đồng

(Dương Giao Linh)

Lược một đoạn: Truyện là dòng kí ức của cậu bé tên Lâm, Lâm không sinh ra ở làng nhưng lớn lên ở làng – một vùng ốc đảo hoang vắng với vẻ đẹp nguyên sơ, bình dị. Làng của Lâm trải qua những xáo trộn trong thời kì phát triển kinh tế, dẫn đến nhiều bất ổn... Dì Lam là dì ruột của Lâm, vì thương mẹ mà dì phải chia tay với người mình yêu để lấy chồng gần (một ông chủ xưởng đóng tàu thuyền), làm dâu được một năm thì dì xách quần áo bỏ về làng vì không thể sống với con người độc ác đó. Người làng bàn tán. Sau đó, dì Lam bỏ đi biệt xứ.

[...] Tôi trở lại với ruộng đồng, nơi những mảnh ruộng ít ỏi còn lại một năm hai vụ gieo cấy. Người làng tôi từ những người nông dân chỉ biết cấy lúa và trồng rau giờ đi làm thợ xây và làm thuê cho dự án. Cuộc sống bớt lam lũ và cơ cực hơn. Nhưng sao tôi vẫn thấy đầy bất an khi đi giữa làng quê mình tiếng còi xe và nhạc băng ầm ĩ thay cho những lời hát ru con mỗi buổi trưa hè. [...]

Mẹ tôi đêm nào cũng đóng cửa ngồi tết chổi rơm đến muộn. Sớm mai mang ra chợ bán cũng đủ tiền mua thức ăn qua ngày. Tôi thương đôi bàn tay gầy rặt những xương của mẹ. Qua những vụ mùa mà vẫn còn vương mùi rơm rạ. Những ngôi nhà trong làng đã khang trang, không khí khác trước nhiều lắm. Còn trong ngôi nhà tôi, mọi thứ dường như vẫn thế. Vẫn không gian bình lặng và an yên, như mạch nước ngầm âm ỉ chảy. […]

Tiếng dép lẹp kẹp dừng trước khoảng sân ngập nắng:

– Lâm!

Tôi ngẩng đầu lên. Trước mặt tôi là người đàn bà mảnh khảnh, hai gò má nhô cao lưa thưa những đốm tàn nhang. Đôi mắt to đen nhìn tôi.

Tôi thảng thốt:

– Dì Lam!

Dì đứng đó, không chạy lại xoa đầu tôi như ngày bé nữa. Có lẽ vì tôi đã cao lớn lắm rồi. Giờ dì không còn coi tôi như một thằng bé buổi sáng dì dắt ra đồng bắt cua, đêm đêm ôm vào lòng đọc truyện cho nghe nữa. Sau mấy phút ngỡ ngàng tôi mới nhận ra đứng cạnh dì là một bé gái mặc áo hoa đỏ, thắt hai bím nơ xinh xắn đang tròn xoe mắt nhìn vào tôi.

– Chào anh Lâm đi con!

Con bé ôm hai chân mẹ. Dì Lam bế nó lên, thơm thơm vào má con rồi quay ra tôi. Giọng dì chầm chậm nhưng rõ từng từ, giống như cái đêm tôi gặp dì ngoài cánh đồng:

– Dì sinh em trong Nam đấy. Tên nó là Cải, hoa cải bên sông làng mình đấy Lâm! Tôi cười với Cải. Dì đặt tên em nghe cũng buồn quá. Tôi dẫn dì ra giếng, kéo gàu nước đổ vào chậu thau. Dì Lam vốc nước rửa mặt rồi rửa cho Cải. Tôi không hỏi dì về năm tháng đã qua. Nhìn dì vui với đứa con gái là tôi biết dì vui vẻ lắm. Mẹ tôi vẫn bảo, cá chuối đắm đuối vì con. Đời người đàn bà chẳng gì bằng đứa con mình dứt ruột đẻ ra. Nó là tương lai, là lẽ sống của cả đời người đàn bà. Đàn bà bất hạnh nhất không phải là người đàn bà không được chồng thương yêu mà là người đàn bà không con.

Mẹ đã nghe tin dì Lam về từ đầu làng nên dáng vẻ tất tả. Quẳng quanh gánh trên vai xuống:

– Dì Lam đâu?

Dì nhìn mẹ. Vẫn đôi mắt to đen bình thản và an vui như nhìn tôi ban nãy. Bao năm rồi tưởng những nỗi giận dì vẫn còn chưa nguôi ngoai trong lòng mẹ. Tưởng những nỗi xấu hổ vì có đứa em gái bỏ chồng rồi bỏ cả làng mà đi vẫn còn khiến mẹ không muốn nhìn mặt dì. Vậy mà... mẹ khóc.

Tôi lớn lên chứng kiến bao nhọc nhằn trên vai mẹ mà chưa lần nào thấy mẹ khóc. Chỉ những mất mát mới làm mẹ rơi nước mắt. Còn giờ đây? Là niềm vui đấy chứ? Sao mẹ khóc? Tôi chạy đến đặt tay lên vai mẹ. Mẹ ngồi xuống thềm, đầu cúi xuống, quệt ngang tay áo. Dì Lam lại gần ôm vai mẹ. Hình như dì không khóc. Đôi mắt dì vẫn bình thản như thế. Từ cái ngày dì quỳ trước mặt bà ngoại xin bà tha tội nhưng nhất quyết không trở lại nhà chồng.

Tháng năm có thể khiến con người ta tiều tụy đi, yếu mòn đi. Nhưng tháng năm lại khiến ý chí của con người ta can trường và bền bỉ. Khi đã đi qua được những nỗi đau, những mất mát lớn nhất của cuộc đời thì ắt hẳn sẽ không có gì khiến con người ta mềm yếu nữa. Nhưng có lẽ cái mất mát lớn nhất ấy là trái tim kia đã đanh chắc lại, ít cảm xúc hơn, như một cách để tự vệ, để không bị tổn thương thêm bất cứ lần nào nữa.

Tôi nhớ dì Lam của tôi những ngày ngồi chong đèn viết thơ và truyện gửi đăng báo. Dì Lam lúc ấy với mái tóc dài luôn được tết gọn gàng. Đôi mắt trong veo nhìn mà cứ như đang cười. Đó là những tháng năm đẹp nhất của dì. Giờ, đi qua thời con gái dì vẫn giữ được thần thái trong ánh mắt. Đó là ánh mắt của người đàn bà đã trải người, đã thấu hiểu sự đời nên bình tâm trước mọi cái. Ông ngoại tôi vẫn bảo, chỉ cần cái tâm mình an yên, thanh thản là mọi thứ sẽ xuôi hết. Tôi tin cái tâm của dì Lam tôi đã an.

Tôi dỗ em Cải, bế em ra ngoài vườn.

(In trong tập “Thổn thức gió đồng”, Nhiều tác giả, NXB Hội Nhà văn, 2021, tr.274 – 276)

* Chú thích: Tác giả Dương Giao Linh tên thật là Vũ Thị Quỳnh Giao, là hội viên Hội Văn học nghệ thuật tỉnh Quảng Ninh. Sáng tác của nhà văn là những cảm nhận, suy tư về cuộc sống, về con người và những biến động của thời cuộc... qua đó chuyển tải những triết lí nhân sinh sâu sắc.

Câu 1. Chỉ ra dấu hiệu để xác định ngôi kể trong đoạn trích trên.

Câu 2. Liệt kê các chi tiết cho thấy sự thay đổi của làng quê nơi nhân vật “tôi” sống.

Câu 3. Phân tích tác dụng của 01 biện pháp tu từ được sử dụng trong hai câu văn sau: “Tháng năm có thể khiến con người ta tiều tụy đi, yếu mòn đi. Nhưng tháng năm lại khiến ý chí của con người ta can trường và bền bỉ.”.

Câu 4. Phân tích sự phù hợp của điểm nhìn trần thuật trong việc thể hiện chủ đề của đoạn trích.

Câu 5. Cuộc sống ở nhiều vùng nông thôn hiện nay đã và đang thay đổi như vùng quê của nhân vật “tôi”. Anh/chị suy nghĩ như thế nào về vấn đề trên? (trả lời trong khoảng 5 – 7 dòng)

1
21 tháng 5

Dưới đây là lời giải chi tiết cho từng câu hỏi về đoạn trích “Thổn thức gió đồng”:


Câu 1. Chỉ ra dấu hiệu để xác định ngôi kể trong đoạn trích trên.

Trả lời:
Dấu hiệu để xác định ngôi kể là việc sử dụng đại từ nhân xưng “tôi” xuyên suốt đoạn trích. Nhân vật “tôi” xưng kể, trực tiếp kể lại câu chuyện và những cảm xúc, suy nghĩ của mình. Ngoài ra, các từ ngữ như “tôi trở lại”, “tôi ngẩng đầu lên”, “tôi thảng thốt”, “tôi dẫn dì”, “tôi nhớ dì Lam”,… đều thể hiện rõ đây là ngôi kể thứ nhất.


Câu 2. Liệt kê các chi tiết cho thấy sự thay đổi của làng quê nơi nhân vật “tôi” sống.

Trả lời:

  • Người làng từ những người nông dân chỉ biết cấy lúa, trồng rau giờ đi làm thợ xây và làm thuê cho dự án.
  • Cuộc sống bớt lam lũ và cơ cực hơn.
  • Tiếng còi xe và nhạc băng ầm ĩ thay cho những lời hát ru con mỗi buổi trưa hè.
  • Những ngôi nhà trong làng đã khang trang, không khí khác trước nhiều lắm.

**Câu 3. Phân tích tác dụng của 01 biện pháp tu từ được sử dụng trong hai câu văn sau:

“Tháng năm có thể khiến con người ta tiều tụy đi, yếu mòn đi. Nhưng tháng năm lại khiến ý chí của con người ta can trường và bền bỉ.”**

Trả lời:
Biện pháp tu từ được sử dụng là điệp ngữ (“tháng năm có thể khiến...”, “nhưng tháng năm lại khiến...”) và phép đối giữa hai vế của hai câu.

  • Tác dụng:
    • Nhấn mạnh tác động của thời gian lên con người: thời gian có thể làm con người tiều tụy, yếu mòn về thể xác, nhưng cũng chính thời gian ấy lại tôi luyện cho con người ý chí can trường, bền bỉ về tinh thần.
    • Làm nổi bật sự đối lập giữa thể xác và tinh thần, giữa mất mát và trưởng thành, qua đó thể hiện triết lí nhân sinh sâu sắc về sức mạnh nội tâm của con người trước thử thách của cuộc đời.

Câu 4. Phân tích sự phù hợp của điểm nhìn trần thuật trong việc thể hiện chủ đề của đoạn trích.

Trả lời:
Đoạn trích được kể theo điểm nhìn của nhân vật “tôi” (ngôi thứ nhất), giúp câu chuyện trở nên chân thực, gần gũi và giàu cảm xúc.

  • Nhờ điểm nhìn này, người đọc dễ dàng cảm nhận được những biến đổi của làng quê, những trăn trở, suy tư và tình cảm sâu sắc của nhân vật đối với gia đình, quê hương, đặc biệt là với mẹ và dì Lam.
  • Điểm nhìn trần thuật này cũng giúp tác giả thể hiện chủ đề về sự đổi thay của làng quê, về giá trị của tình thân, về sức mạnh vượt qua nghịch cảnh của con người một cách tự nhiên, chân thành và sâu sắc.

Câu 5. Cuộc sống ở nhiều vùng nông thôn hiện nay đã và đang thay đổi như vùng quê của nhân vật “tôi”. Anh/chị suy nghĩ như thế nào về vấn đề trên? (5–7 dòng)

Trả lời:
Cuộc sống ở nhiều vùng nông thôn đang thay đổi nhanh chóng, đời sống vật chất được nâng cao, cơ sở hạ tầng phát triển, người dân có nhiều cơ hội việc làm hơn. Tuy nhiên, bên cạnh những đổi thay tích cực, cũng xuất hiện không ít vấn đề như mất đi nét đẹp truyền thống, môi trường sống bị ảnh hưởng, các giá trị văn hóa dần phai nhạt. Theo em, mỗi người cần biết trân trọng, giữ gìn những giá trị tốt đẹp của quê hương, đồng thời thích nghi với sự phát triển để xây dựng một cuộc sống hiện đại mà vẫn đậm đà bản sắc truyền thống.


Nếu bạn cần mở rộng, phân tích sâu hơn hoặc muốn cô gợi ý cách trình bày, hãy hỏi nhé!

(4,0 điểm) Đọc văn bản và thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5: CON ĐƯỜNG LÀNG (Nguyễn Thị Việt Hà) Cái ngõ xoan nhà bà Lối rất quanh co, đường vàng rơm rạ Người đi làm đồng buổi sáng vác cày bừa vội vã Để chiều về thong thả cánh đồng xanh Cái ngõ xoan Sáng nay rưng rức Trên luống ngô, khoai, lạc, rau khúc ngả buồn Chập...
Đọc tiếp

(4,0 điểm) Đọc văn bản và thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5:

CON ĐƯỜNG LÀNG
(Nguyễn Thị Việt Hà)

Cái ngõ xoan nhà bà
Lối rất quanh co, đường vàng rơm rạ
Người đi làm đồng buổi sáng vác cày bừa vội vã
Để chiều về thong thả cánh đồng xanh
Cái ngõ xoan
Sáng nay rưng rức
Trên luống ngô, khoai, lạc, rau khúc ngả buồn
Chập chờn cánh chuồn
Nặng cơn mưa báo trước
Con đường làng...bà ơi...cháu chưa đi hết
Dẫu chân đã đặt đến nơi vượt qua tổ quốc mình
Người ta vẫn hay chùng chình
Sa vào đám đông, cuộc vui, quên con đường quê bé nhỏ
Quên lối cỏ
Bước chân lúc nhỏ chăn trâu lối giẫm đã mòn
Cháu đã chạm chân mấy lần vòng tròn đất nước
Nhưng cháu vẫn chưa đi hết
Con đường làng
Một ngày...
Rắc vàng...
Gò Đống Mối...
Bà ngủ thảnh thơi trên cánh đồng vừa thu hoạch xong vụ lúa
Bà ơi rau khúc đã già
Cháu chợt nhớ ra chưa từng học làm bánh khúc từ bà...

(Khi chúng ta già, tuyển tập thơ Nguyễn Thị Việt Hà, NXB Phụ nữ Việt Nam, 2019, tr.140 – 142)

Câu 1. Xác định nhân vật trữ tình trong bài thơ.

Câu 2. Chỉ ra những câu thơ miêu tả dáng hình, trạng thái của “cái ngõ xoan nhà bà”.

Câu 3. Phân tích ý nghĩa của biện pháp nhân hóa được sử dụng trong câu: Trên luống ngô, khoai, lạc, rau khúc ngả buồn.

Câu 4. Anh/chị hiểu như thế nào về hai chữ “chùng chình” được sử dụng trong đoạn thơ:

Người ta vẫn hay chùng chình
Sa vào đám đông, cuộc vui, quên con đường quê bé nhỏ
Quên lối cỏ
Bước chân lúc nhỏ chăn trâu lối giẫm đã mòn

Câu 5. Theo anh/chị, ta cần làm gì để tuổi trẻ trôi đi không nuối tiếc? (trình bày khoảng 5 – 7 dòng)

1