K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

22 tháng 9

Đó là một buổi sáng mùa đông se lạnh nhưng trong lòng em lại hân hoan khó tả. Hôm nay, lớp em có một chuyến đi tham quan ngoại khóa đến Văn Miếu - Quốc Tử Giám, trường đại học đầu tiên của Việt Nam. Đây là nơi đã nuôi dưỡng biết bao nhân tài cho đất nước qua nhiều thế hệ.


Vừa bước qua cánh cổng chính, một không gian trang nghiêm, cổ kính hiện ra trước mắt. Những bức tường gạch nhuốm màu thời gian, những mái ngói rêu phong và những hàng cây cổ thụ xanh mát khiến chúng em cảm nhận được sự thiêng liêng và trầm mặc của nơi này. Em đặc biệt ấn tượng với khuê văn các - biểu tượng của Văn Miếu. Kiến trúc độc đáo, tinh tế với hình ảnh các ô cửa sổ tròn như ánh sáng tri thức, đã khơi dậy trong em sự tò mò và lòng tự hào về văn hóa dân tộc. Tiếp tục hành trình, chúng em được chiêm ngưỡng hồ Thiên Quang Tỉnh trong xanh, mặt nước phẳng lặng như tấm gương phản chiếu bầu trời. Nơi đây như một khoảng lặng yên bình, giúp chúng em tĩnh tâm và suy ngẫm về giá trị của tri thức. Hai bên hồ là những hàng cây cổ thụ tỏa bóng mát, làm dịu đi cái nắng nhẹ của buổi trưa.

Điểm đến tiếp theo là khu bia tiến sĩ. Từng tấm bia đá lớn được đặt trên lưng những con rùa khổng lồ, khắc tên các vị tiến sĩ đã đỗ đạt trong các kỳ thi ngày xưa. Đọc những cái tên và năm thi, em có thể hình dung ra biết bao nhiêu tấm gương học tập xuất sắc, không quản khó khăn để cống hiến cho đất nước. Những tấm bia này không chỉ là chứng nhân lịch sử mà còn là nguồn cảm hứng lớn lao, thôi thúc chúng em phải nỗ lực học tập để mai sau xây dựng đất nước. Cuối cùng, chúng em dừng chân tại khu điện thờ chính. Không gian trang nghiêm, linh thiêng khiến ai nấy đều cúi đầu thành kính. Chúng em dâng hương, cầu nguyện cho một năm học tập thuận lợi và gửi gắm những ước mơ, hoài bão của mình.

Chuyến đi kết thúc, nhưng những cảm xúc và bài học từ Văn Miếu vẫn còn đọng lại mãi trong em. Nơi đây không chỉ là một di tích lịch sử mà còn là biểu tượng của tinh thần hiếu học, của truyền thống tôn sư trọng đạo. Em thầm hứa với lòng mình sẽ cố gắng học tập thật tốt để xứng đáng với truyền thống vẻ vang của cha ông. Chuyến đi đã giúp em hiểu rõ hơn về giá trị của tri thức và tầm quan trọng của việc học tập, để trở thành một người có ích cho xã hội.

23 tháng 9

Olm chào em, với dạng này em chỉ cần làm lần lượt từng câu một, sau đó nhấn vào kiểm tra. Em cứ làm lần lượt như vậy cho đến khi hết câu của bài kiểm tra tức là em đã hoàn thành bài kiểm tra rồi em nhé. Cảm ơn em đã đồng hành cùng Olm. Chúc em học tập hiệu quả và vui vẻ cùng Olm.

18 giờ trước (16:00)

Đánh răng ít nhất hai lần mỗi ngày (sáng và tối) với kem đánh răng chứa fluoride. Sử dụng bàn chải lông mềm và chải răng theo chuyển động tròn nhẹ nhàng, làm sạch tất cả các bề mặt răng.

23 tháng 9

Olm chào em, cảm ơn đánh giá của em về chất lượng bài giảng của Olm, cảm ơn em đã đồng hành cùng Olm trên hành trình tri thức. Chúc em học tập hiệu quả và vui vẻ cùng Olm em nhé!


16 giờ trước (17:21)

hay

22 tháng 9

ê sao mh ko vào đc vậy nó mh xác mh mh là người rồi ấn đăng nhâoj nhưng 0 đc là sao vậy ( đúng mk )

20 giờ trước (13:31)

1. Công thức thì hiện tại đơn



a. Với động từ "to be"


Động từ "to be" có ba dạng: am, is, are.

  • Câu khẳng định (+):
    Ví dụ:
    • I + am + ...
    • He / She / It / Danh từ số ít + is + ...
    • We / You / They / Danh từ số nhiều + are + ...
    • I am a student.
    • He is very kind.
    • They are at home.
  • Câu phủ định (-):
    Ví dụ:
    • I + am not + ...
    • He / She / It / Danh từ số ít + is not (isn't) + ...
    • We / You / They / Danh từ số nhiều + are not (aren't) + ...
    • I am not a doctor.
    • She isn't my sister.
    • You aren't happy.
  • Câu nghi vấn (?):
    • Am + I + ...?
    • Is + He / She / It / Danh từ số ít + ...?
    • Are + We / You / They / Danh từ số nhiều + ...?

b. Với động từ thường


  • Câu khẳng định (+):
    Ví dụ:
    • I / We / You / They / Danh từ số nhiều + động từ nguyên mẫu (V)
    • He / She / It / Danh từ số ít + động từ thêm "s" hoặc "es" (V-s/es)
    • I work in a hospital.
    • She studies English every day.
    • My brother plays football.
  • Câu phủ định (-):
    • I / We / You / They / Danh từ số nhiều + do not (don't) + động từ nguyên mẫu (V)
    • He / She / It / Danh từ số ít + does not (doesn't) + động từ nguyên mẫu (V)
22 tháng 9

Kim Lân là cây bút truyện ngắn đặc sắc của văn học Việt Nam hiện đại, được mệnh danh là “nhà văn của người nông dân”. Tác phẩm Vợ nhặt là một trong những sáng tác tiêu biểu nhất của ông, viết về nạn đói khủng khiếp năm 1945. Không chỉ thành công ở giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc, truyện ngắn này còn gây ấn tượng mạnh mẽ bởi những nét đặc sắc trong nghệ thuật tự sự – cách kể chuyện, dựng tình huống và xây dựng nhân vật vô cùng độc đáo.

Trước hết, Kim Lân đã sáng tạo nên một tình huống truyện vừa lạ lùng vừa giàu sức gợi: giữa nạn đói chết chóc, một anh dân nghèo xấu xí như Tràng lại lấy được vợ chỉ sau mấy câu nói bông đùa. Tình huống ấy vừa kịch tính, vừa éo le, lại vừa chất chứa hi vọng. Chính tình huống “nhặt vợ” ấy đã làm bật lên số phận thê thảm của con người trong nạn đói, đồng thời hé lộ vẻ đẹp nhân hậu, khát vọng sống và khát vọng hạnh phúc của họ. Đây là điểm sáng đặc biệt, làm nên sức hấp dẫn tự sự của tác phẩm.

Cùng với đó, nghệ thuật khắc họa nhân vật trong Vợ nhặt cũng hết sức tinh tế. Tràng được miêu tả qua những cử chỉ, lời nói, tâm lý giản dị mà sống động, từ chỗ ngỡ ngàng đến vui sướng, rồi dần dần biết lo nghĩ cho tương lai. Người “vợ nhặt” ban đầu hiện lên thô lỗ, chỏng lỏn, nhưng khi về nhà chồng lại bộc lộ sự nết na, hiền dịu, giàu tình cảm. Bà cụ Tứ hiện lên qua lời nói móm mém, vừa hiền từ vừa ngậm ngùi, vừa đau xót cho số kiếp, vừa chan chứa yêu thương con. Kim Lân không chú trọng miêu tả ngoại hình mà tập trung vào tâm lý nhân vật qua những chi tiết rất đời thường, nhờ đó mỗi nhân vật đều trở nên sống động và gần gũi.

Ngôn ngữ tự sự của Kim Lân cũng rất đặc sắc. Ông sử dụng lời kể giản dị, đậm chất khẩu ngữ nông thôn, phù hợp với từng nhân vật. Tràng thì tếu táo, hồn nhiên; bà cụ Tứ thì thủ thỉ, ngậm ngùi; người vợ nhặt thì khi chỏng lỏn, lúc lại e dè, hiền thục. Nhờ cách kể mộc mạc, chân thực ấy mà câu chuyện trở nên tự nhiên, gần gũi, lay động lòng người.

Điểm nhìn trần thuật trong tác phẩm cũng linh hoạt. Truyện kể ở ngôi thứ ba, nhưng chủ yếu gắn với Tràng, nhờ đó người đọc có thể theo sát sự biến đổi tâm lý của nhân vật chính. Đôi khi điểm nhìn chuyển sang bà cụ Tứ hay người vợ nhặt, khiến câu chuyện có chiều sâu hơn, đa dạng hơn trong cảm nhận.

Đặc biệt, Kim Lân còn tạo nên những chi tiết giàu sức gợi, ám ảnh và giàu ý nghĩa biểu tượng. Hình ảnh “nồi cháo cám” trong bữa cơm ngày đói vừa bi thương vừa sáng lên tình cảm gia đình và niềm tin vào sự sống. Hình ảnh lá cờ đỏ phấp phới hiện lên trong tâm trí Tràng ở cuối truyện là chi tiết mang tính dự báo, mở ra con đường sống mới, gắn số phận cá nhân với vận mệnh dân tộc.

Có thể thấy, với tình huống truyện độc đáo, cách khắc họa nhân vật tinh tế, ngôn ngữ mộc mạc mà giàu sức gợi cùng điểm nhìn kể chuyện linh hoạt, Kim Lân đã làm cho Vợ nhặt trở thành một tác phẩm xuất sắc của văn học hiện đại Việt Nam. Nghệ thuật tự sự của ông vừa giản dị, vừa thấm đẫm nhân văn, qua đó làm nổi bật khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc và niềm tin bất diệt vào con người ngay trong hoàn cảnh khốn cùng nhất.

22 tháng 9

Kim Lân là cây bút truyện ngắn đặc sắc của văn học Việt Nam hiện đại, được mệnh danh là “nhà văn của người nông dân”. Tác phẩm Vợ nhặt là một trong những sáng tác tiêu biểu nhất của ông, viết về nạn đói khủng khiếp năm 1945. Không chỉ thành công ở giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc, truyện ngắn này còn gây ấn tượng mạnh mẽ bởi những nét đặc sắc trong nghệ thuật tự sự – cách kể chuyện, dựng tình huống và xây dựng nhân vật vô cùng độc đáo.

Trước hết, Kim Lân đã sáng tạo nên một tình huống truyện vừa lạ lùng vừa giàu sức gợi: giữa nạn đói chết chóc, một anh dân nghèo xấu xí như Tràng lại lấy được vợ chỉ sau mấy câu nói bông đùa. Tình huống ấy vừa kịch tính, vừa éo le, lại vừa chất chứa hi vọng. Chính tình huống “nhặt vợ” ấy đã làm bật lên số phận thê thảm của con người trong nạn đói, đồng thời hé lộ vẻ đẹp nhân hậu, khát vọng sống và khát vọng hạnh phúc của họ. Đây là điểm sáng đặc biệt, làm nên sức hấp dẫn tự sự của tác phẩm.

Cùng với đó, nghệ thuật khắc họa nhân vật trong Vợ nhặt cũng hết sức tinh tế. Tràng được miêu tả qua những cử chỉ, lời nói, tâm lý giản dị mà sống động, từ chỗ ngỡ ngàng đến vui sướng, rồi dần dần biết lo nghĩ cho tương lai. Người “vợ nhặt” ban đầu hiện lên thô lỗ, chỏng lỏn, nhưng khi về nhà chồng lại bộc lộ sự nết na, hiền dịu, giàu tình cảm. Bà cụ Tứ hiện lên qua lời nói móm mém, vừa hiền từ vừa ngậm ngùi, vừa đau xót cho số kiếp, vừa chan chứa yêu thương con. Kim Lân không chú trọng miêu tả ngoại hình mà tập trung vào tâm lý nhân vật qua những chi tiết rất đời thường, nhờ đó mỗi nhân vật đều trở nên sống động và gần gũi.

Ngôn ngữ tự sự của Kim Lân cũng rất đặc sắc. Ông sử dụng lời kể giản dị, đậm chất khẩu ngữ nông thôn, phù hợp với từng nhân vật. Tràng thì tếu táo, hồn nhiên; bà cụ Tứ thì thủ thỉ, ngậm ngùi; người vợ nhặt thì khi chỏng lỏn, lúc lại e dè, hiền thục. Nhờ cách kể mộc mạc, chân thực ấy mà câu chuyện trở nên tự nhiên, gần gũi, lay động lòng người.

Điểm nhìn trần thuật trong tác phẩm cũng linh hoạt. Truyện kể ở ngôi thứ ba, nhưng chủ yếu gắn với Tràng, nhờ đó người đọc có thể theo sát sự biến đổi tâm lý của nhân vật chính. Đôi khi điểm nhìn chuyển sang bà cụ Tứ hay người vợ nhặt, khiến câu chuyện có chiều sâu hơn, đa dạng hơn trong cảm nhận.

Đặc biệt, Kim Lân còn tạo nên những chi tiết giàu sức gợi, ám ảnh và giàu ý nghĩa biểu tượng. Hình ảnh “nồi cháo cám” trong bữa cơm ngày đói vừa bi thương vừa sáng lên tình cảm gia đình và niềm tin vào sự sống. Hình ảnh lá cờ đỏ phấp phới hiện lên trong tâm trí Tràng ở cuối truyện là chi tiết mang tính dự báo, mở ra con đường sống mới, gắn số phận cá nhân với vận mệnh dân tộc.

Có thể thấy, với tình huống truyện độc đáo, cách khắc họa nhân vật tinh tế, ngôn ngữ mộc mạc mà giàu sức gợi cùng điểm nhìn kể chuyện linh hoạt, Kim Lân đã làm cho Vợ nhặt trở thành một tác phẩm xuất sắc của văn học hiện đại Việt Nam. Nghệ thuật tự sự của ông vừa giản dị, vừa thấm đẫm nhân văn, qua đó làm nổi bật khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc và niềm tin bất diệt vào con người ngay trong hoàn cảnh khốn cùng nhất.

22 tháng 9

Olm chào em, cảm ơn đánh giá của em về chất lượng bài giảng của Olm, cảm ơn em đã đồng hành cùng Olm trên hành trình tri thức. Chúc em học tập hiệu quả và vui vẻ cùng Olm em nhé!


22 tháng 9

25 x 25 x 4

= 25 x (25 x 4)

= 25 x 100

= 2500

22 tháng 9

nghe tên quen quen

=25 x 4 x 25

=100 x 25

=2500

Cuối năm ấy, ở Hua Tát động rừng, cây cối xơ xác, chim chóc trốn biệt, không có dấu chân một con thú nào trong rừng. Chưa bao giờ người Hua Tát sống vất vả đến thế. Người ta đồn là Then (2) bắt đầu trừng phạt. Lão thợ săn ngụ cư kiếm ăn cũng rất khó khăn. Vợ chồng lão lang thang khắp rừng. Lần đầu tiên trong đời lão già gặp phải cảnh này. Ba tuần trăng, khẩu súng của lão không...
Đọc tiếp

Cuối năm ấy, ở Hua Tát động rừng, cây cối xơ xác, chim chóc trốn biệt, không có dấu chân một con thú nào trong rừng. Chưa bao giờ người Hua Tát sống vất vả đến thế. Người ta đồn là Then (2) bắt đầu trừng phạt. Lão thợ săn ngụ cư kiếm ăn cũng rất khó khăn. Vợ chồng lão lang thang khắp rừng. Lần đầu tiên trong đời lão già gặp phải cảnh này. Ba tuần trăng, khẩu súng của lão không hề được nổ. Lão già dậy từ gà gáy canh ba vác súng đi đến tối mịt. Người vợ gầy của lão không còn đủ sức đi theo chồng nữa. Mụ ở nhà nhóm lửa chờ đợi. Ngọn lửa mụ nhóm như có ma ám, không đỏ mà lại xanh lét như mắt chó sói.

Lần ấy lão già đi vắng cả tuần liền. Người lão mệt lả. Đầu gối lão chùn xuống, các bắp thịt nhão ra tưởng chừng có thể dùng tay bấu được như bấu những con vắt nhẽo bết máu. Lão đã lết khắp nơi mà không gặp gì. Đến một con chim sâu, thậm chí một con bướm lão cũng không thấy. Lão hoang mang sợ hãi. Then đã trừng phạt thế gian như lời người ta đồn đại hay chăng?

Cuối cùng, mệt lả, lão già kiệt sức phải lết về nhà. Đến con suối đầu bản, lão dừng lại nhìn về nhà mình. Nhà lão có ánh lửa, cái ánh lửa xanh lét, chắc là vợ lão vẫn thức đợi chồng. Lão nhắm nghiền đôi mắt đục và sâu hoắm lại. Ngẫm nghĩ một lát, lão lộn lại rừng. Mũi lão đã đánh hơi thấy mùi thú…Lão gặp may thật. Lão đã nhìn thấy nó. Cái con công ấy đang múa. Kìa, đôi chân con công di chuyển nhẹ nhàng về phía bên phải, cái đuôi xòe thành đường tròn lại dịch về phía bên trái, cái ánh xanh gay gắt trên túm lông dầu của nó rực rỡ làm sao! Lão già giương súng lên: – Đùng! Phát súng nổ. Lão nghe thấy tiếng rú thất thanh. Lão chạy lại con thú bị bắn ngã. Đấy là vợ lão. Mụ đi ra rừng đợi lão, tay mụ còn cầm bộ lông chim công.

Lão thợ săn nằm sấp xuống, úp mặt vào vũng máu trên lớp lá mục nồng nồng, ngái và hôi như mùi chuột.

Miệng lâo hộc lên như tiếng lợn lòi. Lão nằm thế rất lâu. Mây đen sà xuống thấp, khu rừng tối sẫm, nóng hâm hấp như da người sốt. Gần sáng, lão già .. bỗng đứng phắt dậy nhanh như con sóc. Lão nảy ý định lấy xác vợ lão làm mồi để săn con thú, con thú lớn nhất đời mình. Lão nằm trong bụi cây gần cái xác thối rữa của vợ lão một sải tay, đạn lên nòng, khắc khoải chờ đợi. Nhưng Then đã trừng phạt lão. Không có con thú nào đến với lão, chỉ có cái chết đến với lão.Ba ngày sau, người ta lôi cái xác còng queo của lão ra khỏi bụi cây. Một vết đạn xuyên qua trán lão. Lão đã bắn được con thú lớn nhất đời mình.

(1) Giỏ đeo, (2)Ông Trời

(Những ngọn gió Hua Tát – Tuyển tập truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, NXB Văn hoá Thông tin, Hà Nội, 2002, tr. 320)

Câu 1: Nhân vật chính trong câu chuyện là ai?

Câu 2: Văn bản được kể ở ngôi kể nào?

Câu 3: Nhân vật lão thợ săn được xem là hiện thân của ai?

Câu 4: Chi tiết nào chứng tỏ người chồng là tay thợ săn cự phách?

Câu 5: Nguyên nhân cái chết của người vợ lão thợ săn?

Câu 6: Theo em, đâu là con thú lớn nhất (con công, người vợ hay lão chồng)? Vì sao?

Câu 7: Qua câu chuyện, em rút ra được thông điệp gì?

Câu 8: Em có đồng tình với suy nghĩ: Then đã trừng phạt thế gian không? Vì sao?

6
22 tháng 9

giúp mình với ạ



22 tháng 9

mình cần gấp