ĐỀ 6“Ở các nước Âu – Mỹ, lấy ví dụ ở Pháp hiện nay, trung bình một người dân Pháp đọc tới 20 cuốn sách/năm, đối với người dân sống ở thành phố, tầng lớp tri thức, con số đó lên tới 30-50 cuốn/năm (Nguyễn Hương, bài “Người Việt ít đọc sách: Cần những chính sách để thay đổi toàn diện”). Ở Nhật, như đã nói ở trên, ngay từ thời Cải cách Minh Trị, chỉ với 30 triệu...
Đọc tiếp
ĐỀ 6
“Ở các nước Âu – Mỹ, lấy ví dụ ở Pháp hiện nay, trung bình một người dân Pháp đọc tới 20 cuốn sách/năm, đối với người dân sống ở thành phố, tầng lớp tri thức, con số đó lên tới 30-50 cuốn/năm (Nguyễn Hương, bài “Người Việt ít đọc sách: Cần những chính sách để thay đổi toàn diện”). Ở Nhật, như đã nói ở trên, ngay từ thời Cải cách Minh Trị, chỉ với 30 triệu dân mà tiêu thụ tới hàng trăm ngàn cuốn sách dạng tinh hoa, “khó nhằn”. Ở một quốc gia gần hơn trong cộng đồng ASEAN, đó là Malaysia, số lượng sách được đọc trên đầu người là 10-20 cuốn/người/năm (2012, số liệu từ ông Trần Trọng Thành, công ty sách điện tử Aleeza). Và ở Việt Nam, theo con số do Bộ Văn hóa – Thể thao và Du lịch công bố ngày 12/04/2013 ngay trước thềm sự kiện “Ngày hội Sách và Văn hóa Đọc”, số lượng sách một người Việt đọc trong một năm là… 0,8 cuốn, nghĩa là người Việt Nam đọc chưa đầy một cuốn sách trong một năm.
Có sự tương quan rõ ràng giữa văn hóa đọc và sự phát triển của một quốc gia. Với những con số ở trên, dễ hiểu vì sao nước Pháp lại có một nền kinh tế, văn hóa và nghệ thuật rạng rỡ như vậy. Và nước Nhật có thể đứng dậy thần kỳ sau Thế chiến 2 cũng như vươn lên quật khởi sau bao thiên tai liên miên, hiện đang là nền kinh tế đứng thứ hai thế giới với nền khoa học-công nghệ tiên tiến bậc nhất. Malaysia đang là ngôi sao mới ở khu vực ASEAN với những chính sách đổi mới và mở cửa đột phá gần đây. Và người Do Thái với câu chuyện ở đầu bài, một dân tộc 13 triệu dân nhưng sinh ra gần 40% chủ nhân của các giải Nobel; 1/3 trên tống số các nhà triệu phú đang sống và làm việc tại Mỹ là người Do Thái; 20% giáo sư tại các trường đại học hàng đầu hiện nay; 3 nhân vật sau Công nguyên cho đến hiện tại có tác động lớn nhất đến lịch sử nhân loại là Chúa Jesus, Karl Marx và Alber Einstein…là người Do Thái.
Mỗi người Việt chưa đọc nổi một cuốn sách/năm, ai có thể khẳng định không liên quan đến tình trạng suy thoái toàn diện từ kinh tế, giáo dục, văn hóa, xã hội cũng như nhân cách con người hiện nay ở Việt Nam?
(Ngẫm về “tủ rượu” của người Việt và “tủ sách” của người Do Thái - Báo mới)
Câu 1. Đoạn trích trên có thể xếp vào thể loại nào?
Câu 2. Phương thức biểu đạt chính của đoạn trích trên là gì ?
Câu 3. Đoạn trích trên có mấy đoạn văn?
Câu 4. Các từ sau thuộc loại từ nào : “tri thức, quật khởi, thiên tai, chủ nhân, suy thoái, nhân cách”
Câu 5. Đáp án nào sau đây nêu lên chính xác nghĩa của từ “thần kì” trong đoạn trích trên?
Câu 6. Tác dụng của trạng ngữ trong câu “Ở Nhật, như đã nói ở trên, ngay từ thời Cải cách Minh Trị, chỉ với 30 triệu dân mà tiêu thụ tới hàng trăm ngàn cuốn sách dạng tinh hoa, “khó nhằn”” là gì?
Câu 7. Theo em, vấn đề mà tác giả muốn bàn luận qua đoạn trích trên là gì?
Câu 8. Em hãy cho biết nội dung chính của đoạn trích trên là gì?
Câu 9. Em hãy nêu lên ba tác dụng của việc đọc sách đối với bản thân.
Câu 10. Em hãy nêu thể loại sách mà em thích đọc nhất? Vì sao em thích đọc thể loại đó.
Câu 11.Thuyết minh về một lễ hội mà em biết.
Dưới đây là gợi ý làm bài cho cả hai câu bạn yêu cầu. Bạn có thể tham khảo, chỉnh sửa cho phù hợp với cách diễn đạt của mình nhé!
Câu 1: Viết đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ về việc giữ gìn sự trong sáng của ngôn ngữ dân tộc
Ngôn ngữ là linh hồn của một dân tộc, là phương tiện truyền tải văn hóa, lịch sử và truyền thống từ thế hệ này sang thế hệ khác. Việc giữ gìn sự trong sáng của ngôn ngữ dân tộc không chỉ giúp bảo tồn giá trị văn hóa mà còn góp phần xây dựng một xã hội văn minh, tiến bộ. Trong thời đại toàn cầu hóa và sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin, tiếng Việt ngày càng bị ảnh hưởng bởi các từ ngữ nước ngoài, các cách nói không chuẩn mực. Nếu không có ý thức bảo vệ và giữ gìn, ngôn ngữ của chúng ta sẽ dần mất đi sự tinh khiết, làm suy giảm bản sắc văn hóa dân tộc. Mỗi người, đặc biệt là thế hệ trẻ, cần nâng cao ý thức sử dụng tiếng Việt đúng chuẩn, tránh dùng từ ngữ thô tục, vay mượn một cách vô tội vạ. Ngoài ra, việc học tập, nghiên cứu và phát huy vẻ đẹp của tiếng Việt cũng là cách để giữ gìn sự trong sáng của ngôn ngữ. Khi ngôn ngữ được bảo vệ và phát triển, đó cũng là lúc văn hóa dân tộc được giữ gìn và phát huy mạnh mẽ, góp phần xây dựng đất nước giàu đẹp và văn minh.
Câu 2: Viết bài văn nghị luận (khoảng 400 chữ) phân tích nội dung và nghệ thuật của bài thơ "Tiếng Việt của chúng mình trẻ lại trước mùa xuân" – Phạm Văn Tình
Bài thơ "Tiếng Việt của chúng mình trẻ lại trước mùa xuân" của PGS. TS. Phạm Văn Tình là một tác phẩm giàu cảm xúc, thể hiện niềm tự hào và tình yêu sâu sắc với tiếng Việt – ngôn ngữ thiêng liêng của dân tộc. Nội dung bài thơ là sự khắc họa sinh động hành trình lịch sử và giá trị văn hóa của tiếng Việt qua các thời kỳ, từ thuở dựng nước, chiến đấu bảo vệ tổ quốc đến ngày nay, khi tiếng Việt vẫn mãi tươi trẻ, sống động trong từng câu hát dân ca, lời chúc Tết, và những vần thơ.
Bài thơ mở đầu bằng hình ảnh hào hùng của lịch sử dân tộc với "gươm mở cõi", "mũi tên thần", "bài Hịch năm nào", gợi lên truyền thống kiên cường, bất khuất của ông cha. Tiếp đó, tác giả chuyển sang những hình ảnh gần gũi, thân thương như tiếng mẹ ru, lời bà hát, thể hiện sự gắn bó mật thiết của tiếng Việt với cuộc sống hàng ngày và tâm hồn con người Việt. Hình ảnh "bánh chưng xanh", "bóng chim Lạc" không chỉ là biểu tượng văn hóa mà còn là sự khẳng định tiếng Việt luôn được trẻ hóa, phát triển, hòa nhập với thời đại mới.
Về nghệ thuật, bài thơ sử dụng ngôn từ giàu hình ảnh, giàu âm điệu, tạo nên sự mềm mại, uyển chuyển và sức sống mãnh liệt cho tiếng Việt. Các biện pháp tu từ như điệp ngữ ("Tiếng Việt"), ẩn dụ ("bóng chim Lạc bay ngang trời"), và sự kết hợp giữa các hình ảnh lịch sử và đời sống hiện đại tạo nên sự liên kết chặt chẽ, làm nổi bật chủ đề. Nhịp thơ nhẹ nhàng, linh hoạt như lời ru, lời hát, khiến người đọc cảm nhận được sự ấm áp, gần gũi và niềm tự hào về tiếng Việt.
Tóm lại, bài thơ không chỉ là lời ca ngợi tiếng Việt mà còn là lời nhắc nhở mỗi người hãy trân trọng, giữ gìn và phát huy giá trị của ngôn ngữ dân tộc. Tiếng Việt không chỉ là phương tiện giao tiếp mà còn là linh hồn, là cội nguồn văn hóa của dân tộc Việt Nam.
Nếu bạn muốn, mình có thể giúp bạn mở rộng hoặc chỉnh sửa bài theo yêu cầu cụ thể!