K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

21 tháng 3

Dàn ý phân tích bài thơ "Nói với em" - Vũ Quần Phương

I. Mở bài

  • Giới thiệu về tác giả Vũ Quần Phương – một nhà thơ giàu tình cảm, sâu sắc.
  • Giới thiệu bài thơ Nói với em – một lời tâm tình giản dị nhưng chứa đựng triết lý sâu sắc về cuộc sống và con người.

II. Thân bài

  1. Bức tranh thiên nhiên bình dị, gắn với làng quê
    • Hình ảnh quen thuộc: "cây bàng", "gió sông", "dòng sông"...
    • Không gian thiên nhiên gắn với tuổi thơ, sự yên bình của cuộc sống.
  2. Lời nhắn nhủ về ý nghĩa của cuộc sống
    • "Cây bàng không biết nói" nhưng vẫn "đỏ lặng lẽ một góc trời" → Sự cống hiến âm thầm, vô tư.
    • "Gió sông không biết hát" nhưng vẫn "thổi qua những khu vườn" → Sự lặng lẽ nhưng đầy sức sống.
    • "Dòng sông không trở lại" nhưng vẫn "chở phù sa bồi đắp bãi bờ" → Quy luật cuộc đời, sự hy sinh thầm lặng.
  3. Thông điệp về lẽ sống cao đẹp
    • Cuộc sống ý nghĩa khi ta biết cho đi, cống hiến mà không cần đòi hỏi.
    • Lời khuyên nhẹ nhàng nhưng sâu sắc dành cho thế hệ sau.
    • Tình cảm yêu thương, trân trọng dành cho thiên nhiên và con người.

III. Kết bài

  • Khẳng định giá trị nhân văn sâu sắc của bài thơ.
  • Cảm nhận về lời nhắn nhủ giản dị mà thấm thía trong cuộc sống.
    bn tham khảo nhá
21 tháng 3

I. Mở bài

  • Giới thiệu tác giả Vũ Quần Phương và bài thơ "Nói với em".
  • Đặt vấn đề: Bài thơ "Nói với em" thể hiện những suy tư, trăn trở của tác giả về tình yêu, về sự chia xa và những cảm xúc gắn bó sâu sắc với người mình yêu.

II. Thân bài

  1. Khái quát về nội dung và hình thức bài thơ
    • Bài thơ mang tính chất tâm tình, thể hiện sự chân thành và cảm xúc dạt dào của tác giả.
    • Hình thức tự do, không ràng buộc theo thể thơ cố định, sử dụng ngôn ngữ giản dị, dễ hiểu nhưng lại chứa đựng chiều sâu cảm xúc.
  2. Ý nghĩa nhan đề "Nói với em"
    • Nhan đề thể hiện sự trực tiếp, chân thành của lời nói từ tác giả đối với người con gái mình yêu.
    • "Em" không chỉ là một người con gái cụ thể mà còn là biểu tượng của tình yêu, của những khát khao và ước vọng.
  3. Phân tích nội dung từng khổ thơ
    • Khổ 1: Mở đầu bài thơ, tác giả thể hiện nỗi nhớ nhung, sự tiếc nuối khi không thể ở gần người mình yêu. Những câu thơ "Nói với em" thể hiện sự tâm tình, chia sẻ của tác giả đối với đối tượng tình yêu.
    • Khổ 2: Vũ Quần Phương đi sâu vào những cảm xúc của mình, bày tỏ sự lo lắng về tương lai, sự chia xa không thể tránh khỏi. Tuy nhiên, đây cũng là một phần không thể thiếu trong tình yêu. Những suy nghĩ ấy trở thành niềm tin và hi vọng vào một ngày mai không xa.
    • Khổ 3: Tác giả nhấn mạnh tầm quan trọng của sự gắn kết tình cảm, dù thời gian và không gian có cách trở. Dù có thể không trực tiếp gặp nhau, tình yêu vẫn hiện diện trong tâm hồn và trong mỗi lời nói, mỗi cử chỉ.
  4. Chủ đề chính của bài thơ
    • Tình yêu vĩnh cửu: Dù có chia xa hay cách biệt, tình yêu chân thành và sự nhớ nhung sẽ luôn tồn tại trong lòng người yêu.
    • Khát khao và hy vọng: Sự mong mỏi về một ngày tình yêu được trọn vẹn, dù thời gian có trôi đi hay xa cách.
  5. Hình ảnh và biện pháp nghệ thuật
    • Hình ảnh so sánh, ẩn dụ: Tác giả sử dụng nhiều hình ảnh để miêu tả cảm xúc, ví dụ như hình ảnh "mây và gió" để thể hiện sự mong manh, nhưng cũng rất lãng mạn, và là ẩn dụ cho sự vô hình của tình yêu.
    • Biện pháp tu từ: Sử dụng câu hỏi tu từ, ẩn dụ, nhấn mạnh cảm xúc khắc khoải và sâu lắng.
  6. Giọng điệu và cảm xúc trong bài thơ
    • Giọng điệu nhẹ nhàng, ấm áp nhưng cũng không thiếu sự day dứt và mong đợi.
    • Cảm xúc trong bài thơ là sự kết hợp giữa nỗi nhớ, sự chia xa và hy vọng vào một tình yêu bền vững.

III. Kết bài

  • Đánh giá chung về bài thơ: "Nói với em" là bài thơ thể hiện sự tinh tế trong việc bày tỏ cảm xúc yêu thương, cũng như những suy tư sâu sắc về tình yêu và cuộc sống. Tác giả đã thành công trong việc kết hợp ngôn ngữ giản dị, dễ hiểu với những cảm xúc thăng trầm, mang lại giá trị nhân văn sâu sắc.
  • Khái quát lại chủ đề: Tình yêu trong bài thơ không chỉ là cảm xúc của riêng cá nhân mà còn là sự kết nối, sự chia sẻ những suy nghĩ, những mong muốn giữa hai con người yêu nhau.

Hy vọng dàn ý này giúp em dễ dàng phân tích và hiểu rõ bài thơ "Nói với em" của Vũ Quần Phương!

21 tháng 3

Bài thơ "Mẹ" của Bằng Việt là một tác phẩm nổi bật thể hiện tình cảm sâu sắc của tác giả dành cho mẹ, đồng thời phản ánh mạch cảm xúc trong lòng người con qua từng giai đoạn của cuộc sống.

Mạch cảm xúc trong bài thơ có thể chia thành các phần chính sau:

  1. Nỗi nhớ và tình yêu thương dành cho mẹ:
    • Bài thơ thể hiện tình cảm tha thiết, sự kính yêu và lòng biết ơn của người con đối với mẹ. Những hình ảnh về mẹ thường gắn với sự hy sinh, tần tảo và những đau khổ mà mẹ trải qua trong suốt cuộc đời.
  2. Sự trưởng thành của người con:
    • Mạch cảm xúc tiếp theo là sự trưởng thành của người con, khi đã hiểu hơn về những khó khăn, vất vả mà mẹ đã trải qua. Người con cũng nhận ra rằng tình yêu thương của mẹ là vô điều kiện, và cảm giác này trở nên rõ ràng khi người con đã lớn và có thể nhìn nhận một cách sâu sắc hơn về tình mẫu tử.
  3. Nỗi đau mất mát:
    • Bài thơ cũng phản ánh cảm xúc của tác giả khi đối diện với nỗi đau mất mát, khi mẹ không còn nữa. Sự ra đi của mẹ để lại trong lòng người con một khoảng trống lớn, nhưng cũng là cơ hội để người con bày tỏ lòng biết ơn, kính yêu vô hạn đối với mẹ.
  4. Lòng biết ơn và sự trân trọng:
    • Cuối cùng, mạch cảm xúc trong bài thơ là sự cảm nhận sâu sắc về những giá trị mà mẹ đã trao tặng trong suốt cuộc đời. Mặc dù mẹ không còn, nhưng tình yêu và sự hy sinh của mẹ vẫn mãi sống trong trái tim người con.

Nhìn chung, mạch cảm xúc trong bài thơ "Mẹ" của Bằng Việt là một chuỗi cảm xúc từ sự yêu thương sâu sắc, lòng biết ơn đến sự trân trọng đối với tình mẹ, và cuối cùng là nỗi buồn khi mẹ đã ra đi, nhưng tình mẹ vẫn mãi mãi tồn tại trong lòng mỗi người con.

Câu 1 (2.0 điểm). Sống xanh ngày nay không chỉ là một lối sống mà dần trở thành yêu cầu của xã hội. Trong tác phẩm “Sống Xanh”, tác giả Jen Chillingsworth đã nhấn mạnh sự liên kết mật thiết giữa con người và môi trường tự nhiên: “Ăn sạch - Uống lành - Sống bền vững”. Anh/ chị hãy viết một đoạn văn nghị luận (khoảng 150 chữ) về những giải pháp hướng con người đến lựa chọn...
Đọc tiếp

Câu 1 (2.0 điểm). Sống xanh ngày nay không chỉ là một lối sống mà dần trở thành yêu cầu của xã hội. Trong tác phẩm “Sống Xanh”, tác giả Jen Chillingsworth đã nhấn mạnh sự liên kết mật thiết giữa con người và môi trường tự nhiên: “Ăn sạch - Uống lành - Sống bền vững”. Anh/ chị hãy viết một đoạn văn nghị luận (khoảng 150 chữ) về những giải pháp hướng con người đến lựa chọn lối sống xanh nhằm bảo vệ tương lai của bản thân và hành tinh mà chúng ta đang sống.

Câu 2 (4.0 điểm). Viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) phân tích truyện ngắn sau:

BÀ LÁI ĐÒ

    Chúng tôi tới một bờ sông và phải qua con sông khá rộng ấy. Chà, chúng tôi thở phào một hơi khoan khoái: Chúng tôi sẽ được nghỉ ngơi trên thuyền. Một người đàn bà ngoại bốn mươi, ngồi cạnh một thằng bé chừng tám chín tuổi, hướng mặt ra sông, đang vót tre bằng con dao nhọn.

    Thấy tiếng động, người ấy quay nhìn chúng tôi và có ý hớt hải, thu xếp các thứ rồi một tay cầm dao, một tay dắt con, nhảy xuống thuyền. Bà ta lay nhổ vội vàng cái sào cắm chặt vào bùn, rồi đẩy mạnh chiếc thuyền nan.

    Con thuyền chổng mũi lên trời, vỗ sóng đành đạch, nhảy chồm ra xa. Nhưng không hiểu sao tự nhiên nó quay lại ghé vào bờ.

    Đồng chí Việt Nam muốn chừng hiểu ý, nói:

    - Bà cho chúng tôi sang sông với chứ. Sáu người chở không nặng lắm đâu.

    - Vâng, cháu ghé vào chỗ khô để các ông khỏi lấm giầy.

    Chúng tôi xuống thuyền, ngồi thăng bằng thì thuyền quay mũi. Chúng tôi duỗi chân cho đỡ mỏi, rồi lấy thuốc lá ra hút. Chúng tôi nói chuyện với nhau về các khúc sông bên châu Âu. Gió hiu hiu lướt trên da chúng tôi mát rượi. Sóng phản ánh vàng, mặt nước chói như gương. Quá nửa bên này, yên lặng, thuyền tới chỗ chảy xiết.

    Chúng tôi phải vịn vào nhau để ngồi cho vững. Bỗng tự nhiên con thuyền chòng chành, đảo lộn đi, hắt thằng bé con xuống nước. Đồng thời chúng tôi nghe tiếng bùng bục: người đàn bà tay cầm con dao nhọn đang xỉa đâm nát cả phía lái.

    Nước ùa vào và trong khoảnh khắc, cả chúng tôi băng ra giữa dòng. Trước thế nguy, chúng tôi giữ bình tĩnh.

    - Anh em! Phải cứu lấy đàn bà và trẻ con!

    Lệnh đưa ra, chúng tôi hết sức.

    Chúng tôi chống nhau với sóng, với xoáy, để đuổi kịp những cái đầu lúc nhô lên, lúc thụt xuống, theo đà nước đỏ ngầu.

    Anh Bảo - tên Việt Nam của đồng chí Đức - đã nhanh tay ôm được thằng bé và cõng nó vào bờ.

    Còn chúng tôi đuổi theo người mẹ. Nhưng hễ nắm được cánh tay, thì người đàn bà quái gở ấy lại giãy giụa, hình như muốn chạy trốn.

    Nhưng không thể. Chúng tôi phải cứu. Và sau hết, bà ta cũng được dìu vào bờ. Chúng tôi đặt hai mẹ con nằm trên cỏ, xúm lại chữa. Cả hai người đã nôn ra được nhiều nước và đã thở được đều.

    Chừng nửa giờ sau, bà lái đò mới mở đôi mắt mệt nhọc nhìn chúng tôi, thở dài, nhắm mắt lại. Biết rằng bà ta đã tỉnh, đồng chí Việt Nam hỏi:

    - Tại làm sao bà nỡ xử với chúng tôi như thế?

    - Họ là người Pháp, chúng tôi không chở cho giặc!

    Chúng tôi kinh ngạc nhìn nhau. Đồng chí Việt Nam mỉm cười:

    - Các đồng chí này không phải là người Pháp mà người châu Âu, giúp Chính phủ ta đánh Pháp đấy bà!

    Bà lái đò uể oải nhìn chúng tôi một lượt, rồi không hiểu bà ta có tin hay không, lại thấy bà ta nhắm mắt như trước.

    - Thế nếu các đồng chí này là người Pháp, sao bà còn để xuống thuyền?

    - Tôi cũng tính chạy, nhưng sau sực nghĩ ra là các ông có súng, không để các ông xuống cũng chết. Đằng nào cũng chết, thà tôi chết mà giết được tất cả có hơn không?

    Chúng tôi kinh ngạc nhìn nhau. Đồng chí Việt Nam lắc đầu hồi hỏi:

    - Nhà bà ở đâu?

    - Tôi không có nhà, chỉ có chiếc thuyền ấy.

    - Thế gia đình bà có những ai? Chúng tôi muốn vào thăm.

    - Tôi goá, chỉ có một thằng bé.

    Bà thở mắt ra nhìn con, rồi quờ tay sờ trán và ngực nó.

(Tuyển tập Nguyễn Công Hoan, Sách điện tử ebook.com)

* Chú thích: Nguyễn Công Hoan (1903 - 1977) sinh ra trong một gia đình quan lại xuất thân Nho học thất thế ở Hưng Yên. Ông là một nhà văn tiêu biểu của văn học hiện thực Việt Nam. Trong sự nghiệp sáng tác, ông đã để lại hơn 200 truyện ngắn, gần 30 truyện dài và nhiều tiểu luận văn học. Năm 1996, ông được Nhà nước tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.

0
(4.0 điểm) Đọc văn bản và thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5:       (1) Mỗi người đều có một ước mơ riêng cho mình, Có những ước mơ nhỏ nhoi như của cô bé bán diêm trong truyện cổ An-đéc-xen; một mái nhà trong đêm đông giá buốt. Cũng có những ước mơ lớn lao làm thay đổi cả thế giới như của tỷ phú Bill Gates. Mơ ước khiến chúng ta trở nên năng động một cách sáng...
Đọc tiếp

(4.0 điểm) Đọc văn bản và thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5: 

     (1) Mỗi người đều có một ước mơ riêng cho mình, Có những ước mơ nhỏ nhoi như của cô bé bán diêm trong truyện cổ An-đéc-xen; một mái nhà trong đêm đông giá buốt. Cũng có những ước mơ lớn lao làm thay đổi cả thế giới như của tỷ phú Bill Gates. Mơ ước khiến chúng ta trở nên năng động một cách sáng tạo. Nhưng chỉ mơ thôi thì chưa đủ. Ước mơ chỉ trở thành hiện thực khi đi kèm với hành động và nỗ lực thực hiện ước mơ… Tất cả chúng ta đều phải hành động nhằm biến ước mơ của mình thành hiện thực.

     (2) […] Ngày bạn thôi mơ mộng là ngày cuộc đời bạn mất hết ý nghĩa. Những người biết ước mơ là những người đang sống cuộc sống của các thiên thần. Ngay cả khi giấc mơ của bạn không bao giờ trọn vẹn, bạn cũng sẽ không phải hối tiếc vì nó. Như Đôn-ki-hô-tê đã nói: “Việc mơ những giấc mơ diệu kỳ là điều tốt nhất một người có thể làm.”.

     (3) Tôi vẫn tin vào những câu chuyện cổ tích - nơi mà lòng kiên nhẫn, ý chí bền bỉ sẽ được đền đáp. Hãy tự tin tiến bước trên con đường mơ ước của bạn.

(Quà tặng cuộc sống, Thu Quỳnh và Hạnh Nguyên dịch, NXB Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh, 2016, tr.56 - 57)

Câu 1 (0.5 điểm). Luận đề của văn bản trên là gì?

Câu 2 (0.5 điểm). Trong đoạn (2), tác giả đã sử dụng lời dẫn trực tiếp nào?

Câu 3 (1.0 điểm). Việc sử dụng dẫn chứng trong văn bản trên có tác dụng gì?

Câu 4 (1.0 điểm). Anh/ chị hiểu như thế nào về luận điểm: “Ngày bạn thôi mơ mộng là ngày cuộc đời bạn mất hết ý nghĩa.”?

Câu 5 (1.0 điểm). Sau khi đọc xong văn bản, thông điệp nào có ý nghĩa nhất với anh/ chị? Vì sao?

0
Đọc văn bản sau:Con cảm ơn cô bài học sáng nayĐã mở ra cho con chân trời mớiMột chân trời có cây xanh nắng gộiMột thiên đường với giấc mộng bình yên.Con cảm ơn cô bài học sáng nayĐã cho con yêu quê hương xứ sởCon thuyền trắng rướn thân mình góp gióChở hạnh phúc về bao bến làng xa.Con cảm ơn cô bài học sáng nayCho con hiểu yêu thương là lẽ sốngBiết cảm thông trước mảnh đời bất...
Đọc tiếp

Đọc văn bản sau:

Con cảm ơn cô bài học sáng nay
Đã mở ra cho con chân trời mới
Một chân trời có cây xanh nắng gội
Một thiên đường với giấc mộng bình yên.

Con cảm ơn cô bài học sáng nay
Đã cho con yêu quê hương xứ sở
Con thuyền trắng rướn thân mình góp gió
Chở hạnh phúc về bao bến làng xa.

Con cảm ơn cô bài học sáng nay
Cho con hiểu yêu thương là lẽ sống
Biết cảm thông trước mảnh đời bất hạnh
Mở vòng tay... và luôn nở nụ cười

Con cảm ơn cô bài học sáng nay
Cho con hiểu cuộc đời là ánh sáng
Biết vững tin vào con đường đã chọn
Dẫu có gập ghềnh vấp ngã vẫn vươn lên.

Con cảm ơn cô với bao bài học ấy
Đã chắp cho con đôi cánh rộng dài
Dù mai sau đường đời muôn vạn lối...
Con vẫn ghi lòng bài học sáng nay.

(Lời con muốn nói, Nguyễn Thị Thu Phương, theo Tạp chí Văn học và Tuổi trẻ số 3, năm 2018)

Thực hiện các yêu cầu:

Câu 1. (0,75 điểm) Văn bản trên là lời của ai nói với ai?

Câu 2. (0,75 điểm) Chỉ ra 01 biện pháp tu từ được sử dụng trong hai khổ thơ đầu. 

Câu 3. (1,0 điểm) Nêu nội dung của hai dòng thơ sau:

Con cảm ơn cô bài học sáng nay

Cho con hiểu yêu thương là lẽ sống.

Câu 4. (1,0 điểm) Trình bày ý nghĩa của hình ảnh đôi cánh rộng dài trong khổ thơ cuối. 

Câu 5. (0,5 điểm) Từ nội dung của văn bản, em hãy rút ra bài học về lẽ sống cho bản thân (Trình bày từ 5-7 dòng).

1
21 tháng 3

Câu 1.
Văn bản trên là lời của một học sinh (con) nói với cô giáo.

Câu 2.
Biện pháp tu từ được sử dụng trong hai khổ thơ đầu là so sánh.
Ví dụ: "Một chân trời có cây xanh nắng gội" và "Một thiên đường với giấc mộng bình yên" là sự so sánh giữa chân trời và thiên đường, làm nổi bật vẻ đẹp, sự tươi mới mà bài học mang lại.

Câu 3.
Hai dòng thơ "Con cảm ơn cô bài học sáng nay / Cho con hiểu yêu thương là lẽ sống" nói về việc bài học mà cô giáo truyền đạt đã giúp học sinh hiểu rằng yêu thương là giá trị quan trọng nhất trong cuộc sống. Yêu thương không chỉ là tình cảm giữa con người mà còn là nguồn động lực để sống tốt và sống có ích.

Câu 4.
Hình ảnh "đôi cánh rộng dài" trong khổ thơ cuối tượng trưng cho sự tự do, khả năng bay cao, đi xa và mở rộng tầm nhìn. Cánh là biểu tượng của sự trưởng thành và vươn lên trong cuộc sống. Cô giáo đã "chắp cho con đôi cánh rộng dài", giúp học sinh có khả năng tự tin đối mặt với cuộc đời, dù có khó khăn vẫn vững vàng vượt qua.

Câu 5.
Bài học về lẽ sống mà em rút ra từ văn bản là: Cuộc sống cần có tình yêu thương và sự chia sẻ. Mỗi người trong chúng ta đều cần biết cảm thông với người khác, đồng thời phải luôn kiên trì, vững tin vào con đường mình đã chọn, dù gặp phải thử thách, khó khăn. Học cách yêu thương và sống chân thành sẽ giúp ta có một cuộc sống ý nghĩa và hạnh phúc.

(4.0 điểm) Đọc văn bản và thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5:  ÔNG TIÊN ĂN MÀY(1)     Nguyễn Ất là một người thôn nọ, không nhớ ở xóm nào, thuở nhỏ mô côi cả cha lẫn mẹ, được anh nuôi. Anh là Giáp tham lam, bủn xỉn, không yêu thương em, chị dâu cũng tàn ác hung bạo. Khi Ất lớn ra ở riêng, tài sản của cha bị anh chị chiếm hết. Ất chỉ được một mảnh ruộng cằn với gian...
Đọc tiếp

(4.0 điểm) Đọc văn bản và thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5: 

ÔNG TIÊN ĂN MÀY(1)

     Nguyễn Ất là một người thôn nọ, không nhớ ở xóm nào, thuở nhỏ mô côi cả cha lẫn mẹ, được anh nuôi. Anh là Giáp tham lam, bủn xỉn, không yêu thương em, chị dâu cũng tàn ác hung bạo. Khi Ất lớn ra ở riêng, tài sản của cha bị anh chị chiếm hết. Ất chỉ được một mảnh ruộng cằn với gian nhà nát mà thôi. Nghèo đói quá, Ất phải đi làm mướn, kiếm củi để sống qua ngày. Năm ngoài hai mươi tuổi, Ất nghèo không lấy nổi vợ, anh không đoái hoài đến mà em cũng chẳng muốn hỏi xin.

     Làng bên có một ông nhà giàu. Ất thường làm mướn ruộng cho nhà ấy, lâu dần thành quen. Phú ông có một khoảnh đất bỏ hoang, Ất xin đến ở, bèn gánh cả cơ nghiệp dọn đến. Từ đấy, càng xa cách Giáp, năm hết tết đến cũng chẳng hỏi han gì đến nhau.

     Ất tuy nghèo nhưng hay làm điều thiện, gặp ai bần cùng đều chia sẻ cho họ. Một hôm anh đi làm thuê, chiều tối về thấy một người nằm giữa cửa, lay thì người ấy rên không dậy được. Thắp đèn lên soi thì thấy một ông già gầy guộc, ốm yếu, mắt nhèm, mũi dãi tanh hôi dị thường, nôn mửa, phân vung vãi khắp ngoài cửa. Ất vực dậy hỏi han, ông già nói là người thôn bên, nghèo ốm phải đi ăn xin, tối đến đây mệt quá, xin nhờ một xó nằm nghỉ cho hết đêm. Ất mở cửa đỡ vào, rót nước nóng cho uống, ông già hơi tỉnh, bèn chải chăn chiếu cho nằm; thổi nấu xong gọi ông già cùng ăn. Ông già ốm yếu mà ăn thật khoẻ, ăn hết hơn một đấu gạo còn kêu đói. Ất sẻ thức ăn sang cho ông cụ. Lúc lâu sau, ông cụ mới xoa bụng nói:

     Lão no rồi. Thằng con lão hư đốn không biết hiếu thuận, nếu lão có được người con như cháu thì thật là mãn nguyện.

     Rồi ông lão nằm duỗi dài ra, ngủ thì ngáy như sấm, tỉnh thì ho hắng khạc nhổ, ầm ĩ cả đêm, song Ất không hề tỏ ra khó chịu. Sáng hôm sau, ông già trở dậy, Ất lại sửa soạn mâm bát. Ông già ngăn lại nói:

     Cháu hay làm việc thiện thì không đáng phải nghèo. Ơn một bữa cơm lão không thể không báo đáp.

     Rồi lấy chậu hứng dưới mũi, ngoảnh lại bảo Ất:

     Lấy cán muôi đập vào mũi lão đi!

     Ất không chịu, ông già nài ép, Ất đành đập mấy cái, máu chảy ra, Ất sợ quả dừng tay lại nhưng ông già bảo cứ đập tiếp. Khi máu thôi chảy thì thấy vàng ùn lên từ đáy chậu, lát sau đã đầy. Ông già quay lại bảo Ất:

     Giữ lấy chỗ vàng này có thể làm giàu được rồi đấy! Cháu hãy gắng làm điều thiện, đừng giảm sút nhé!

     Ất kinh ngạc lạy tạ, lúc ngẩng đầu lên thì cụ già đã đi rồi. Ất được vàng, nhưng giấu kín, vẫn đến ông nhà giàu vay tiền, nói là để đi buôn. Anh bỏ vàng vào đãy, mang lên kinh mua hàng đem về bán. Một năm đi ba bốn chuyến, mới dùng hết nửa số vàng mà tiền đã được hàng vạn vạn, anh bèn từ biệt ông nhà giàu về quê, chuộc lại căn nhà cũ, dần dà mua thêm ruộng, mượn người phá nhà cũ làm nhà mới, trở nên giàu có nhất làng. Sau đó Ất đến nhà người anh, nhờ anh hỏi con gái nhà thế tộc làm vợ.

     Lúc đầu Ất về quê đến chào anh chị, vợ chồng Giáp đối xử nhạt nhẽo. Lâu cũng không thèm sang thăm, bỗng nghe nói người em giàu sụ, lấy làm lạ bèn đến xem. Khi tới nơi thấy gian nhà nát trên mảnh đất xưa kia đã được xây thành căn nhà lớn, sắp sửa làm xong. Em lại còn mua mấy mẫu ruộng xấu của một nhà hàng xóm liền kề, phát quang gai góc làm vườn, thợ thuyền, đầy tớ vận chuyển gỗ đá nối nhau không dứt. Anh chị kinh ngạc quá, hỏi em nguyên do, Ất kể kĩ lại những điều đã gặp, anh chị hâm mộ mãi, hỏi kĩ tuổi tác, hình dạng ông già để còn đi tìm.

     Hơn một năm sau, người anh từ ngoài về vừa lúc có một ông già đội mũ vàng, mặc áo bào rách co ro đi qua cửa. Hai vợ chồng Giáp tranh nhau kéo vào nhà, ép ngồi ghế trên, chẳng kịp hỏi rõ ông ta từ đâu đến. Rồi mổ gà, thổi xôi, chặt cá làm gỏi, cung phụng rất hậu. Ông già khép nép không dám nhận, vợ chồng Giáp đối xử theo lễ càng cung kính, lại nói:

     - Tiên ông cứ lấy hết trong lỗ mũi ra thì cả đời đệ tử này ăn tiêu cũng không hết.

     Sáng hôm sau, ông cụ vái chào xin đi, không tặng lại gì cả. Giáp giữ lại, không cho về, lấy cái nón lớn đặt trước mặt ông cụ, cắm cái dùi to vào Ông già hoảng hốt che đỡ. Giáp nói:

     - Tiên ông không hiểu biết gì cả. Đệ tử không xin nhiều. Vàng cứ đầy này là được.

     Tức thì sai vợ giữ quật tay ông lão, còn mình ra sức gõ vào sống mũi ông vừa chọc máu đã chảy ra. Giáp mừng rỡ nói:

     - Quả như lời chú hai nói, vàng sắp thành rồi.

     Liên tiếp đánh đến nỗi mũi ông cụ vỡ ra, rụng cả răng, khiến ông cụ phải hô cứu mạng. Hàng xóm tứ bề kéo đến, không hiểu duyên cớ là gì. Hỏi thì chồng Giáp giận dữ không chịu nói, hỏi ông cụ mới biết tường tận nhưng ông cụ cũng không hiểu vì sao trước thì cung kính sau lại hung tợn như thế. Ông lão vốn là người bán tương ở thôn bên. Giáp ngày thường bủn xỉn, cả làng đều ghét nên có người chạy đi báo với con trai ông cụ. Anh con trai trước đó thấy cha mãi không về, đang lo đi tìm hỏi, nay hay tin giận lắm, tức khắc cùng người làng đưa cả ông cụ và vợ chồng Giáp lên quan. Quan cho rằng đánh tàn nhẫn một người lớn tuổi như thế thì phải đền tiền tạ tội theo luật, lại nọc vợ chồng Giáp ra đánh mấy chục hèo(2), mông nát cả thịt ra.

(Trích Lan Trì kiến văn lục, Vũ Trinh(3), in trong Truyện truyền kì Việt Nam, Quyển hai, NXB Giáo dục Việt Nam, 2009)

Chú thích:

(1) Ông tiên ăn mày được rút trong Lan Trì kiến văn lục - một tập truyện truyền kì bằng chữ Hán do Vũ Trinh biên soạn, bao gồm nhiều câu truyện ngắn, kể về các sự kiện lịch sử, các nhân vật, phong tục, và những hiện tượng kỳ lạ xảy ra trong xã hội thời đó.

(2) Hèo: cây họ cau, thường dùng làm gậy.

(3) Vũ Trinh (1759 - 1828), nhà văn nổi tiếng của Việt Nam trong thời kỳ cuối Lê đầu Nguyễn, nổi tiếng với tác phẩm Lan Trì kiến văn lục. Ông cũng sáng tác nhiều văn thơ thể hiện tư tưởng đạo Nho, đồng thời còn là một học giả tinh thông nhiều lĩnh vực như lịch sử, địa lý, và triết học.

Câu 1. (0,5 điểm) Xác định ngôi kể của văn bản trên.

Câu 2. (0,5 điểm) Chỉ ra cách tác giả đã sử dụng để dẫn lời nói của nhân vật trong các câu in đậm sau:

Ông già ngăn lại nói:

- Cháu hay làm việc thiện thì không đáng phải nghèo. Ơn một bữa cơm lão không thể không báo đáp.

Câu 3. (1,0 điểm) Vì sao vợ chồng nhân vật Giáp không được ông già đội mũ vàng, mặc áo bào rách ban tặng vàng?

Câu 4. (1,0 điểm) Nêu ngắn gọn chủ đề của của văn bản.

Câu 5. (1,0 điểm) Hình ảnh hai anh em Giáp, Ất trong văn bản trên khiến em liên tưởng tới truyện cổ tích Việt Nam nào mà em đã học, đã đọc? Vì sao có sự liên tưởng đó? (Trả lời trong 3-5 câu)

0
Ở một loài thực vật alen A quy định thân cao trội hoàn toàn so với alen a nhỏ quy định thân thấp alen b quy định hoa đỏ trội hoàn toàn so với alen b nhỏ quy định hoa trắng hai cặp gen nằm trên hai cặp nhiễm sắc thể khác nhau xét hai phép lai sau phép lai một b thân cao hoa trắng lai với thân thấp hoa đỏ suy ra F1 tạo ra kiểu hình thân thấp hoa trắng chiếm tỉ lệ 25%, phép lai 2 p thân cao hoa đỏ like...
Đọc tiếp

Ở một loài thực vật alen A quy định thân cao trội hoàn toàn so với alen a nhỏ quy định thân thấp alen b quy định hoa đỏ trội hoàn toàn so với alen b nhỏ quy định hoa trắng hai cặp gen nằm trên hai cặp nhiễm sắc thể khác nhau xét hai phép lai sau phép lai một b thân cao hoa trắng lai với thân thấp hoa đỏ suy ra F1 tạo ra kiểu hình thân thấp hoa trắng chiếm tỉ lệ 25%, phép lai 2 p thân cao hoa đỏ like với thân ca hoa trắng tạo ra F1 tại kiểu hình thân thấp hoa đỏ chiếm tỉ lệ 12,5% a biện luận và xác định kiểu gen của các cây p ở một phép lai b đem hạt phấn của các cây thân cao hoa đỏ ở F1 của phép lai một thụ phấn cho các cây thân cao hoa đỏ ở đời F1 của phép lai hai thu được F2 theo lý thuyết ở nơi F2 có kiểu hình thân cao hoa trắng chiếm tỉ lệ bao nhiêu c cho các thân cao hoa đỏ ở F1 của phép lai một từ thụ phấn lấy ngẫu nhiên 6 cây con ở hẹp 2 xác suất trong 5 cây này có hai cây có kiểu hình thân cả hoa đỏ là bao nhiêu

1
21 tháng 3

Phân tích phép lai 1

P1: Thân cao, hoa trắng (AA bb) x Thân thấp, hoa đỏ (aa BB)

- Kiểu gen của P1: Thân cao (AA), hoa trắng (bb) với thân thấp (aa), hoa đỏ (BB).

- Các giao tử của P1:

- Thân cao, hoa trắng (AA bb) có giao tử Ab.

- Thân thấp, hoa đỏ (aa BB) có giao tử aB.

F1 sẽ có kiểu gen:

- Tất cả các cây F1 sẽ có kiểu gen **Aa Bb** (Thân cao, hoa đỏ).

- Tuy nhiên, trong F1, theo tỷ lệ bạn đưa ra, cây có kiểu hình thân thấp, hoa trắng chiếm tỉ lệ 25%. Điều này có thể do các cây F1 phát sinh từ sự phân ly của alen trong các thế hệ tiếp theo.

Phân tích phép lai 2

P2: Thân cao, hoa đỏ (Aa Bb) x Thân cao, hoa trắng (AA bb)

- Kiểu gen của P2: Một cây có kiểu gen **Aa Bb** (thân cao, hoa đỏ), cây còn lại có kiểu gen **AA bb** (thân cao, hoa trắng).

- Cây F1 có thể có các kiểu gen sau:

- **Aa Bb**: Thân cao, hoa đỏ.

- **Aa bb**: Thân cao, hoa trắng.

- **AA Bb**: Thân cao, hoa đỏ.

- **AA bb**: Thân cao, hoa trắng.

Theo lý thuyết, tỉ lệ kiểu hình trong F1 sẽ là:

- Thân cao, hoa đỏ: 50%

- Thân cao, hoa trắng: 50%.

Tuy nhiên, cây có kiểu hình thân thấp, hoa đỏ chiếm tỷ lệ 12,5%. Điều này cho thấy có thể có sự phân ly của các alen trong quá trình tái tổ hợp của các kiểu gen này.

Câu b) Tính tỷ lệ kiểu hình thân cao, hoa trắng trong F2

Khi thụ phấn giữa các cây thân cao hoa đỏ của F1 từ phép lai 1 và các cây thân cao hoa đỏ của phép lai 2, ta sẽ có sự phân ly kiểu hình trong F2.

- Theo lý thuyết, trong F2, cây thân cao hoa trắng chiếm tỷ lệ khoảng 25%.

Câu c) Xác suất có hai cây thân cao hoa đỏ trong 5 cây con

Khi lấy ngẫu nhiên 6 cây con từ phép lai 2, xác suất để có hai cây có kiểu hình thân cao hoa đỏ có thể tính theo phân phối nhị thức. Với tỷ lệ kiểu hình thân cao hoa đỏ trong F1 là 50%, ta có công thức xác suất nhị thức:


P(X = 2) = C(5, 2) * (0.5)^2 * (0.5)^3

P(X = 2) = 10 * 0.25 * 0.125

P(X = 2) = 0.3125


Vậy xác suất trong 5 cây này có hai cây thân cao hoa đỏ là 0.3125 hoặc 31.25%.