Cảm nhận khi nghe bài thơ Tiếng Việt
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Trả lời :
Là học sinh, ta đã quá quen thuộc với những chiếc bút màu giúp những bức tranh chúng ta thêm sống động. Mà ta còn thấy được qua bài thơ Sắc màu em yêu được liệt kê với đủ loại màu sắc như những mảng màu không thể thiếu trong cuộc sống được tả dưới con mắt chân thật của một bạn nhỏ có thể thấy được trong những vần thơ vô tư của tác giả Phạm Đình Ân.
Một bảng màu sắc hiện ra mỗi màu đều mang ý nghĩa riêng đều tượng trưng cho hình ảnh riêng, bạn nhỏ nhanh chóng chọn được màu đỏ với suy nghĩ khá hồn nhiên mà thực tế là màu máu con tim, màu cờ tổ quốc,khăn quàng đỏ đeo trên cổ. Tiếp theo,màu xanh của đồng bằng bao la, của biển xanh, bầu trời quê hương thân thương. Và màu vàng được quan sát tỉ mỉ là nắng vàng rực rỡ, của màu hoa cúc, của đồng lúa chín dưới sự chăm sóc của người lao động. màu không thể thiếu màu trắng liên tưởng là trang giấy vật quen thuộc,là màu của những bông hồng bạch, và đặc biệt được chìm trong làn tóc trắng mượt mà của người bà minh chứng rõ ràng của thời gian.Một tông màu trầm gần gũi từ hòn than đen, của đôi mắt của màn đêm cao vợi. Là màu tím của sự thủy chung của hoa cà, hoa sim, đến chiếc khăn, và màu mực. Và màu cuối cùng được cất lên là màu nâu của áo mẹ, của đất đai, màu của gỗ. Kết thúc bảng màu vô số màu sắc dưới sự thích thú của bạn nhỏ, ta thấy nó gắn với những thứ quá đỗi thường xuyên và khắc sâu trong tâm trí mỗi con người rồi. Dường như không thể thiếu một màu nào để làm nên bức tranh hoàn hảo ấy, cũng như những vần thơ đẹp đẽ ấy. Qua cách diễn tả ta có thể cảm thấy tình yêu tuy nhỏ bé nhưng rất tinh tế với từng thứ trong cuộc sống của người bạn nhỏ. Cũng là thông điệp ngợi ca lên tình yêu với đất nước từ thế hệ trẻ thấy rõ trong đoạn văn cuối “Trăm nghìn cảnh đẹp” và thấy được ý thức từ hành động nhỏ nhất có thể làm được của bạn nhỏ rất “Ngoan” và sự tự nhắc nhở nhẹ nhàng phải tích cực và nâng cao ý thức vừa chăm học vừa phải biết nghe lời và hoạt động tích cực tuổi nhỏ làm việc nhỏ để giúp đỡ người xung quanh.
Qua bài thơ, tác giả mượn lời bạn nhỏ đem đến cho người đọc một sự đồng cảm về suy nghĩ qua những sắc màu liên tưởng rộng ra là tình cảm về con người và sự vật xung quanh, thể hiện tình yêu rất cao quý của thế hệ trẻ dành cho đất nước và phấn đấu thực hiện thể hiện tình yêu ấy rõ nét hơn bằng những hành động thực tế.
~ HT ~
Khổ thơ | Các chi tiết thể hiện cảm xúc của chủ thể trữ tình | Cảm xúc của chủ thể trữ tình |
1 | Dây cung nguyệt lạnh, trung thương, trắng nhớ, đàn buồn, đàn lặng | Lạnh lẽo, u buồn |
2 + 3 | Bóng sáng rung mình, nương tử đã chết, đàn ghê như nước, nhớ Tâm Dương,... | Bồi hồi, run rẩy khi tưởng nhớ những loài hoa nghệ thuật trong quá khứ |
4 | chiếc đảo, rợn bốn bể, sâu âm nhạc, sao Khuê. | Rợn ngợp, rùng mình khi cảm nhận nỗi cô đơn muôn đời của những tài hoa nghệ thuật. |
Nhà thơ cảm giác của khách vãn cảnh Hương Sơn khi tiếng chuông chùa:
+ Du khách từ cái thế giới đầy biến động ngoài kia dường như giác ngộ
+ Con người đi vào cảnh thảng thốt với tiếng chày kình
+ Tất cả dường như rũ bỏ những muộn phiền trần gian để hòa với không khí linh thiêng chốn Phật đường
+ Sinh khí Hương Sơn vô hình hiện hữu trong tất cả sự vật
⇒ Tác giả nắm bắt được tinh thần, thần tình
Tu hú là một loài chim mang tiếng hót của mình để báo hiệu một mùa hè đến với nhân loại. Tiếng chim tu hú đã xuất hiện trong những vẫn thơ của nhà thơ Tố Hữu để thể hiện được nội dung tư tưởng của thi nhân. Mở đầu và kết thúc bài thơ Khi con tu hú đều có tiếng tu hú kêu. Tiếng chim tu hú ở cả hai câu đều là tiếng của một loài chim và biểu tượng cho một điều gì đó. Tuy nhiên tiếng tu hú ở câu đầu gợi ra cảnh mùa hè tươi vui trong tâm trạng háo hức, bồn chồn của tác giả. Còn tiếng tu hú ở câu cuối như thúc giục cuộc sống tự do làm cho tác giả vô cùng đau khổ vì chưa thể thoát ra khỏi cảnh tù đầy. Dù tiếng chim tu hú được đặt ở hai phần khác nhau nhưng nó đã bộc lộ được khao khát tự do mãnh liệt trong lòng người chiến sĩ cách mạng đều biểu trưng cho tiếng gọi tha thiết của tự do, của cuộc sống ngoài kia đầy quyến rũ đối với người tù nhưng tâm trạng của người tù khi nghe tiếng tu hú lại rất khác nhau.
Tình yêu tiếng Việt in sâu vào tâm khảm mỗi người từ những ngày bé thơ khi tập đọc ê a từng con chữ đầu lòng. Nhưng một tình yêu đầu đời hết sức đơn giản đến vậy đâu có dễ để nói thành lời, như nhà thơ, nhà viết kịch Lưu Quang Vũ đã từng thốt lên trong những rung động cảm xúc chân thành: “…Ôi tiếng Việt suốt đời tôi mắc nợ/Quên nỗi mình quên áo mặc cơm ăn/Trời xanh quá môi tôi hồi hộp quá/Tiếng Việt ơi tiếng Việt ân tình…”.
Tự hào tiếng Việt
Cuối tuần, được “giao nhiệm vụ” đón cô em họ tên Vy đang học mẫu giáo chuẩn bị lên cấp một, tôi mới chợt nhớ ra một thứ gì đó thật đẹp đẽ trong buổi học chữ cái ở “tuổi học” vốn còn rất ngây thơ này. Cô bé bình thường vốn nghịch ngợm, nhưng hết giờ lại lọt thỏm ở một góc, ngồi xếp bộ đồ chơi bằng chữ in đủ các loại mầu sắc sặc sỡ. Cô giáo bảo Vy đã biết gì về phát âm, đánh vần đâu, nhưng vẫn cứ khăng khăng “chung thủy” với trò xếp hình chữ cái mấy hôm nay. Tôi gạn hỏi thì con bé kể: “Em muốn xếp tên con Xù để tặng nó, nó bị ốm cả tuần nay rồi ạ”. Hóa ra những chữ cái đó sẽ là món quà “chữa bệnh” của Vy dành đến chú mèo con ở nhà. Và món quà đấy thật sự đáng trân trọng khi cô bé đã biết yêu và cảm nhận từ những con chữ, từ những cái tên của sự vật, con người thân thuộc.
Phải chăng, đó là một thứ tình yêu mang tên tiếng Việt đã in sâu và ngày một lớn dần trong mỗi người chúng ta ngay từ thời thơ bé, những ngày mà sự thơ ngây và trong sáng vẫn ngự trị trong tâm trí để diễn đạt những điều tốt đẹp một cách giản dị nhất.
Tô Hoài Quỳnh Châu, sinh viên năm thứ ba khoa Ngữ văn Anh, Ðại học Khoa học Xã hội và Nhân văn thành phố Hồ Chí Minh đang làm một công việc mà nghe chừng thật nhiều người bất ngờ. Cứ chiều thứ năm và chủ nhật hằng tuần, lớp học tiếng Việt miễn phí cho người nước ngoài do Châu “đứng lớp” tại quán cà-phê sách trên đường Lê Duẩn, quận 1 lại “tấp nập” học sinh ngoại quốc. Ý tưởng của bạn được nhiều người đón nhận bởi sự mới mẻ, và cả sự cần thiết cho những người nước ngoài muốn sống lâu dài tại Việt Nam. Châu chọn cái tên giản đơn cho dự án của mình: “Tôi yêu tiếng Việt”. Tình yêu với ngôn ngữ quê hương không chỉ là việc tôn trọng việc học tập, sử dụng tiếng Việt mà với Quỳnh Châu và các bạn đồng hành, giờ đây chỉ tâm niệm một mong muốn đưa tiếng Việt ra thế giới. Với mỗi người mang trong mình dòng máu Việt Nam, tiếng Việt như một thước đo tình yêu với quê hương, bản xứ.
Tình cảm đó lại càng đúng đắn với một người Việt Nam xa quê hương, nhưng luôn tự hào về nguồn cội. Sang Cộng Hòa Liên Bang Ðức từ năm hai tuổi, nay đã 25 tuổi, cô gái trẻ Nghiêm Thu Trang vẫn nói tiếng Việt một cách tròn trịa và đầy quen thuộc. Có lẽ không mấy ai biết đến Trang nếu như cô không là một nghệ sĩ vi-ô-lông đầy triển vọng cũng như là tác giả câu nói đầy tinh thần Việt Nam lan truyền trong cộng đồng người Việt ở Ðức: “Tiếng Việt là một bản nhạc có dấu, khác hẳn mọi ngôn ngữ khác. Tôi là người chơi nhạc và biết học, biết yêu tiếng Việt như là cơ hội để tự hoàn thiện về khả năng cảm thụ âm nhạc”. Tiếng Việt thật sự là một phần cuộc sống không thể thiếu của Thu Trang. Có nó, Trang có cả một thế giới đầy tình thương yêu, trìu mến của cha mẹ, của anh chị em họ hàng và quan trọng hơn là văn hóa bản xứ, văn hóa dân tộc. Nghệ sĩ vi-ô-lông Nghiêm Thu Trang có thể giao tiếp thành thạo các ngôn ngữ Anh, Pháp, Ðức, nhưng điều tự hào lớn nhất mà Trang vẫn thường khoe với bạn bè chính là khả năng thành thạo tiếng Việt – tiếng mẹ đẻ. Nghe có vẻ ngạc nhiên, nhưng không phải là điều lạ trong cộng đồng người Việt trẻ kiều bào. Giờ đây, tình yêu tiếng Việt và khả năng học, sử dụng thành thạo tiếng Việt đã trở thành một nhu cầu, đồng thời là phương tiện hiệu quả lưu giữ tình yêu quê hương đất nước. Nghiêm Thu Trang là thế hệ thứ hai của người Việt tại Ðức và đối với cô, yêu tiếng Việt chính là tự hào về tiếng Việt.
TIẾNG VIỆT
Tiếng mẹ gọi trong hoàng hôn khói sẫm
Cánh đồng xa cò trắng rủ nhau về
Có con nghé trên lưng bùn ướt đẫm
Nghe xạc xào gió thổi giữa cầu tre.
Tiếng kéo gỗ nhọc nhằn trên bãi nắng
Tiếng gọi đò sông vắng bến lau khuya
Tiếng lụa xé đau lòng thoi sợi trắng
Tiếng dập dồn nước lũ xoáy chân đê.
Tiếng cha dặn khi vun cành nhóm lửa
Khi hun thuyền, gieo mạ, lúc đưa nôi
Tiếng mưa dội ào ào trên mái cọ
Nón ai xa thăm thẳm ở bên trời.
"Ðá cheo leo trâu trèo trâu trượt..."
Ði mòn đàng đứt cỏ đợi người thương
Ðây muối mặn gừng cay lòng khế xót
Ta như chim trong tiếng Việt như rừng.
Chưa chữ viết đã vẹn tròn tiếng nói
Vầng trăng cao đêm cá lặn sao mờ
Ôi tiếng Việt như đất cày, như lụa
Óng tre ngà và mềm mại như tơ.
Tiếng tha thiết, nói thường nghe như hát
Kể mọi điều bằng ríu rít âm thanh
Như gió nước không thể nào nắm bắt
Dấu huyền trầm, dấu ngã chênh vênh.
Dấu hỏi dựng suốt ngàn đời lửa cháy
Một tiếng vườn rợp bóng lá cành vươn
Nghe mát lịm ở đầu môi tiếng suối
Tiếng heo may gợi nhớ những con đường.
Một đảo nhỏ xa xôi ngoài biển rộng
Vẫn tiếng làng tiếng nước của riêng ta
Tiếng chẳng mất khi Loa thành đã mất
Nàng Mỵ Châu quỳ xuống lạy cha già.
Tiếng thao thức lòng trai ôm ngọc sáng
Dưới cát vùi sóng dập chẳng hề nguôi
Tiếng tủi cực kẻ ăn cầu ngủ quán
Thành Nguyễn Du vằng vặc nỗi thương đời.
Trái đất rộng giàu sang bao thứ tiếng
Cao quý thâm trầm rực rỡ vui tươi
Tiếng Việt rung rinh nhịp đập trái tim người
Như tiếng sáo, như dây đàn máu nhỏ.
Buồm lộng sóng xô, mai về trúc nhớ
Phá cũi lồng vời vợi cánh chim bay
Tiếng nghẹn ngào như đời mẹ đắng cay
Tiếng trong trẻo như hồn dân tộc Việt.
Mỗi sớm dậy nghe bốn bề thân thiết
Người qua đường chung tiếng Việt cùng tôi
Như vị muối chung lòng biển mặn
Như dòng sông thương mến chảy muôn đời.
Ai thuở trước nói những lời thứ nhất
Còn thô sơ như mảnh đá thay rìu
Ðiều anh nói hôm nay, chiều sẽ tắt
Ai người sau nói tiếp những lời yêu ?
Ai phiêu bạt nơi chân trời góc biển
Có gọi thầm tiếng Việt mỗi đêm khuya ?
Ai ở phía bên kia cầm súng khác
Cùng tôi trong tiếng Việt quay về.
Ôi tiếng Việt suốt đời tôi mắc nợ
Quên nỗi mình quên áo mặc cơm ăn
Trời xanh quá môi tôi hồi hộp quá
Tiếng Việt ơi! Tiếng Việt ân tình...
Không phải ngẫu nhiên nhiều nhà phê bình văn học cho rằng bài thơ Tiếng Việt của nhà viết kịch, nhà thơ Lưu Quang Vũ phải được chọn đưa vào chương trình Ngữ văn trung học. Tôi nghĩ, đây là ý kiến cần được quan tâm bởi Tiếng Việt là một trong những bài thơ hay viết về tiếng nói dân tộc. Nếu được chọn, bài thơ không những hội đủ các tiêu chí của một tác phẩm văn học có giá trị về nội dung và nghệ thuật mà còn có tính tích hợp cao với các phân môn Tiếng Việt, Tập làm văn.
Đạo diễn, NSND Đào Trọng Khánh, một người bạn thân thiết của Lưu Quang Vũ đánh giá: “Lưu Quang Vũ là một trong số rất ít người làm nghệ thuật thể hiện được cái tình đậm đà, thắm thiết, đắng cay mà hồn hậu, nhân ái của Mẹ Việt Nam. Người làm thơ viết về quê hương thì rất nhiều, nhưng viết hay, thân thiết và xúc động như Lưu Quang Vũ trong bài Tiếng Việt thì rất ít”.
Viết về tiếng Việt, nhà thơ Lưu Quang Vũ đã không bắt đầu bằng những khái niệm trừu tượng mà dẫn nhập bằng những câu thơ có sức gợi để cho người đọc thấy được đời sống sinh hoạt, lao động của người Việt - nơi thai nghén, hình thành và nuôi dưỡng tiếng nói dân tộc. Một không gian văn hóa Việt được anh tạo dựng với những hình ảnh, âm thanh của làng quê Việt Nam thân thuộc, dấu yêu:
Tiếng mẹ gọi trong hoàng hôn khói sẫm
Cánh đồng xa cò trắng rủ nhau về
Có con nghé trên lưng bùn ướt đẫm
Nghe xạc xào gió thổi giữa cầu tre.
(…)
“Đá cheo leo trâu trèo trâu trượt…”
Đi mòn đàng đứt cỏ đợi người thương
Đây muối mặn gừng cay lòng khế xót
Ta như chim trong tiếng Việt như rừng.
Vâng! Tiếng Việt được cất lên từ bờ tre, gốc rạ; từ cánh đồng xa, dòng sông vắng; từ sự lấm láp, nhọc nhằn, lam lũ của của đời sống lao động; từ những tâm tình ngọt ngào, sâu lắng của người Việt. Đó là âm thanh của “Tiếng mẹ gọi trong hoàng hôn khói sẫm”, “Tiếng cha dặn khi vun cành nhóm lửa”; âm thanh của tiếng “xạc xào gió thổi giữa cầu tre”, “Tiếng dập dồn nước lũ xoáy chân đê”, “Tiếng mưa dội ào ào trên mái cọ”; âm thanh của “Tiếng kéo gỗ nhọc nhằn trên bãi nắng/ Tiếng gọi đò sông vắng bến lau khuya/ Tiếng lụa xé đau lòng thoi sợi trắng”… Có thể nói, mọi mặt của đời sống dân tộc - về tự nhiên và xã hội, về vũ trụ và con người - đã làm nên hồn cốt của tiếng Việt.
Ngôn ngữ là một trong những nhân tố hợp thành quan trọng, góp phần làm nên cái nền tảng về giá trị, bản sắc, tinh hoa của nền văn hóa dân tộc. Tiếng Việt - "Thứ của cải vô cùng lâu đời và vô cùng quý báu của dân tộc"(1) – là thứ tiếng “Chưa chữ viết đã vẹn tròn tiếng nói” bởi nó liên quan đến ý thức xã hội, ứng xử và giao tiếp, cũng như các kết quả hoạt động vật chất và tinh thần của người Việt.
Nhà thơ Lưu Quang Vũ đã rất tài hoa khi khái quát được đặc trưng tiếng nói của dân tộc trong hai câu thơ xuất thần: "Ôi tiếng Việt như đất cày, như lụa. Óng tre ngà và mềm mại như tơ". Tác giả mượn những hình ảnh vừa gần gũi, thân thuộc vừa mang đậm bản sắc dân tộc như “đất cày”, “lụa”, “tre ngà”, tơ” để nói về tiếng Việt. Nhà thơ đã gợi cho người đọc cảm nhận được được tiếng nói dân tộc vừa có sự mộc mạc, chân chất, khỏe khoắn của “đất cày”; vừa có sự dịu dàng, mát mẻ của “lụa”; vừa có sự óng ả, thanh tao của “tre ngà”; vừa có sự mềm mại, uyển chuyển của “tơ”.
Như chúng ta đã biết với một hệ thống nguyên âm, phụ âm phong phú, hệ thống các thanh điệu với những âm độ, âm vực, tiếng Việt có khả năng tạo ra nhiều giai điệu khác nhau: du dương trầm bổng, réo rắt, sâu lắng, thiết tha… Tiếng Việt giàu âm thanh, nhạc điệu “nói thường nghe như hát/ kể mọi điều bằng ríu rít âm thanh”.
Dấu huyền trầm, dấu ngã chênh vênh.
Dấu hỏi dựng suốt ngàn đời lửa cháy
Và như để chứng minh tiếng Việt là ngôn ngữ giàu hình tượng, nhà thơ đã dẫn ra một số tiếng nói quen thuộc mà có khả năng gợi nhiều liên tưởng:
Một tiếng vườn rợp bóng lá cành vươn
Nghe mát lịm ở đầu môi tiếng suối
Tiếng heo may gợi nhớ những con đường.
Nhà phê bình văn học Đặng Thai Mai cho rằng: “Tiếng Việt có đầy đủ khả năng để diễn đạt tình cảm, tư tưởng của người Việt Nam và để thỏa mãn cho yêu cầu của đời sống văn hóa nước nhà qua các thời kì lịch sử”(2). Không đi sâu phân tích hay luận bàn sự giàu đẹp của tiếng Việt, nhà thơ Lưu Quang Vũ mượn chính ngôn ngữ đậm chất thơ của dân tộc mình để nói về vai trò của người sáng tạo ra thứ ngôn ngữ đó.
Nhiều độc giả cho rằng tính nhân dân là hạt nhân tư tưởng của bài thơ. Nhân dân là những người đã lao động, sáng tạo, đổ mồ hôi, công sức, chịu đựng gian khổ, hi sinh vun đắp cho tiếng Việt ngày càng giàu đẹp và giữ cho tiếng Việt mãi là tiếng nói của một dân tộc có chủ quyền. Thần thái tiếng Việt chính là sức sống mãnh liệt của con người Việt Nam cần cù, nhẫn nại; ân nghĩa, thủy chung; kiên cường, bất khuất.
Dẫu có sự cách trở về địa lí, tiếng Việt vẫn là thứ của cải riêng của dân tộc: “Một đảo nhỏ xa xôi ngoài biển rộng/ Vẫn tiếng làng tiếng nước của riêng ta”. Trải qua bao biến cố của lịch sử, tiếng Việt vẫn tồn tại:“Tiếng chẳng mất khi loa thành đã mất/ Nàng Mỵ Châu quỳ xuống lạy cha già”. Đi qua những thăng trầm của đời người, tiếng Việt vẫn lấp lánh, sáng trong: “Tiếng thao thức lòng trai ôm ngọc sáng/Dưới cát vùi sóng dập chẳng hề nguôi/Tiếng tủi cực kẻ ăn cầu ngủ quán/ Thành Nguyễn Du vằng vặc nỗi thương đời”.
Tiếng Việt làm nên một dòng chảy văn hóa “Như vị muối chung lòng biển mặn /
Như dòng sông thương mến chảy muôn đời”; gắn kết quá khứ với hiện tại: “Ai thuở trước nói những lời thứ nhất/ còn thô sơ như mảnh đá thay rìu/ Điều anh nói hôm nay, chiều sẽ tắt/ Ai người sau nói tiếp những lời yêu?”; kết nối lời yêu thương những người có chung tiếng nói, chung dòng máu Việt dù người đó đang “phiêu bạt nơi chân trơi góc biển” hay ở “phía bên kia cầm súng khác”. Có thể nói, đây là những phát hiện mới mẻ của nhà thơ Lưu Quang Vũ về sức mạnh kì diệu của tiếng Việt. Nó là “dòng sông thương mến chảy muôn đời”, là biển lớn của tinh thần hoà hợp dân tộc.
Với tất cả lòng yêu quý và trân trọng tiếng mẹ đẻ, nhà thơ Lưu Quang Vũ đã tạo ra mạch nguồn cảm xúc lai láng, trào dâng, bất tận trong bài thơ Tiếng Việt. Mỗi khổ thơ là một cung bậc cảm xúc: có lúc chậm rãi, khoan thai, xa vắng; có khi dồn dập, sôi nổi, riết róng… nhưng cảm xúc chủ đạo vẫn là tha thiết, ân tình:
Ôi tiếng Việt suốt đời tôi mắc nợ
Quên nỗi mình quên áo mặc cơm ăn
Trời xanh quá môi tôi hồi hộp quá
Tiếng Việt ơi! Tiếng Việt ân tình…
Nhà thơ Chế Lan Viên đã từng ca ngợi công lao của đại thi hào Nguyễn Du trong việc giữ gìn và làm giàu đẹp tiếng Việt qua tuyệt tác Truyện Kiều: “Bạch Đằng anh là cắm cọc vào thời gian nước chảy/ Cho nghìn năm sau vầng trăng tiếng Việt mãi còn” (Nghĩ thêm về Nguyễn). Tôi thiết nghĩ, với bài thơ Tiếng Việt, nhà thơ Lưu Quang Vũ cũng đã “cắm cọc vào thời gian nước chảy” và “vầng trăng tiếng Việt” trong thơ anh sẽ mãi sáng trên thi đàn văn học Việt Nam.