K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

10 tháng 8 2021

TRẬN CẤM KHÊ

Hậu Hán thư, mục Mã Viện truyện (q.24) có ghi: “Viện đuổi bọn Trưng Trắc đến Cấm Khê, đánh bại họ mấy lần. Tháng Giêng năm sau (tức Kiến Vũ thứ 19, dương lịch là khoảng tháng 2 năm 43 - N.V.P.) chém Trưng Trắc, Trưng Nhị nộp đầu về Lạc Dương”.

Cũng Hậu Hán thư, mục Nam Man truyện (q.86) lại viết: “Tháng Tư năm Kiến Vũ thứ 19 (tức khoảng tháng 5 năm 43 - N.V.P.) Viện phá Giao Chỉ, chém Trưng Trắc, Trưng Nhị”.

Thủy kinh chú (q.37) dẫn Giao Chân ngoại vực ký: “... Mã Viện sang đánh, Trắc và Thi chạy vào Kim Khê cứu, ba năm mới bắt được”.

Cũng ở Thủy kinh chú (q.37) còn có câu: “Theo sách Việt chí thì Cấm Khê là Kim Khê ở phía tây-nam huyện Mê Linh. Theo Nam Việt chí thì Trưng Trắc chạy vào Kim Khê huyện hai năm mới bắt được”.

Qua các tài liệu trên, có hai vấn đề cần làm sáng tỏ: địa danh, địa điểm Cấm Khê và thời gian chiến sự diễn ra ở nơi ấy.


VỀ ĐỊA DANH, ĐỊA ĐIỂM CẤM KHÊ

Các tài liệu trên đều khẳng định Cấm Khê là căn cứ kháng chiến cuối cùng của Hai Bà. Đất Cấm Khê ấy còn có tên là Kim Khê và được coi là cứu hoặc huyệt. Cứu có nghĩa là khe, động. Huyệt có nghĩa là chỗ khe núi nước chảy xói vào. Vậy cứu và huyệt nghĩa cũng na ná như nhau. Kể ra bản thân chữ khê cũng đã có ý nghĩa là một cái khe núi vì ở các tài liệu nói trên, chữ khê được viết theo bộ cốc, chữ ấy có nghĩa là một khe nước ở vùng núi non (chứ không phải ở đồng bằng).

Như vậy Cấm Khê hoặc Kim Khê - có thể hiểu là Khe Cấm hoặc Khe Vàng - phải là một vùng có khe có suối tức cũng là một vùng đồi núi, mà là một vùng đồi núi không hẹp, lại hiểm trở, để nghĩa quân có thể trú ẩn an toàn và chiến đấu trong một thời gian dài ít nhất là từ một năm trở lên.

Vậy Cấm Khê cụ thể là ở chỗ nào? Từ đời nhà Đường, cuối thế kỷ thứ VII, thái tử Lý Hiền làm công việc chú giải Hậu Hán thư, đã ghi chú về Cấm Khê như sau: “Quận Giao Chỉ, huyện Mi Linh (có âm khác là Mê Linh) có Kim Khê cứu, người đời gọi lầm là Cấm Khê. Đó là nơi Trưng Trắc cố thủ. Nay thuộc huyện Tân Xương, Phong Châu”.

Như thế thì cũng có thể hình dung ra vị trí Cấm Khê được rồi. Song từ trước đến nay đã có nhiều ý kiến khác nhau chỉ định vị trí này. Các tác giả bộ Cương mục thì cho rằng: “Cấm Khê ở về địa hạt Vĩnh Tường tỉnh Sơn Tây” (Tiền biên - q.2). Vĩnh Tường nay là một huyện thuộc tỉnh Vĩnh Phúc. Ông Đào Duy Anh lại đoán định Cấm Khê là xã Cẩm Khê hay còn gọi là Cẩm Viên ở huyện Yên Lạc cũng thuộc tỉnh Vĩnh Phúc (Cổ đại Việt Nam - Tập IV - tr.65)1.

Thế là cả hai thuyết trên đều đặt Cấm Khê ở trên một dải đồng bằng hẹp nằm ngay bên tả ngạn sông Hồng mà hàng năm về mùa mưa lũ thường bị ngập nước (vì ngày đó chưa có đê). Như vậy không phù hợp với sự ghi chép của các thư tịch đã nêu ở trên. Vả nếu đúng là dải đồng bằng ấy thì làm sao mà Hai Bà tổ chức kháng chiến được tới hàng năm (hoặc hai hay ba năm) chống lại cuộc bao vây càn quét của hai vạn quân giặc đang nắm ưu thế quân sự? Để làm được như vậy, nghĩa quân Hai Bà phải có một căn cứ hiểm yếu, có giá trị phòng ngự tốt nhưng lại cũng không phải hoàn toàn khép kín mà có thể và cần phải liên lạc được với các căn cứ khác, với nhân dân hậu phương (có thế mới duy trì được cuộc chiến đấu).

Năm 1972, ông Đinh Văn Nhật trong luận văn Đất Cấm Khê, căn cứ cuối cùng của Hai Bà Trưng trong cuộc khởi nghĩa Mê Linh năm 40 – 43 in ở tạp chí Nghiên cứu Lịch sử các số 148-149, đã đưa ra một giả thuyết mới. Nội dưng cơ bản của thuyết này là coi trung tâm Cấm Khê, căn cứ kháng chiến cuối cùng của Hai Bà Trưng, chính là khu vực thung lũng Suối Vàng, nơi có con Suối Vàng từ sườn đông núi Tản Viên nam chảy về rồi vòng qua Hạ Lôi - Bằng Trù ở huyện Thạch Thất để đổ vào sông Tích. Thung lung Suối Vàng được coi là tên Nôm của Kim Khê cứu. Tác giả mô tả: “Con suối này bắt nguồn từ núi Xổ có đỉnh cao 178m, gần thôn Cổ Cửa trên đất các xã Đào Lãng và Bằng Lộ cũ, thuộc huyện Lương Sơn tỉnh Hòa Bình, sau đó chảy qua xóm Suối Vàng rồi vào địa hạt xã Hạ Bằng, huyện Thạch Thất, thành suối Hạ Bằng; suối này chảy qua chân núi Tu Hú, qua xã Hạ Bằng rồi sau cùng đổ vào sông Con ở ngang Dã Cát và Phú Vinh thuộc huyện Quốc Oai, Hà Sơn Bình”. (Nghiên cứu Lịch sử, số 148 ).

Giả thuyết này được nhiều nhà nghiên cứu chấp nhận. Ông Văn Tân vừa tán thành lại vừa cung cấp thêm một giả thiết về mặt ngữ âm: “Kim Khê hay Cấm Khê đều đọc là gin xi hay chín xi. Đầu tiên người ta đã dịch Suối Vàng ra gin xi (chín xi) tức Kim Khê. Sau khi truyền miệng cho nhau, người ta chỉ nói là gin xi. Rồi từ gin xi người ta viết ra Cấm Khê hoặc Cẩm Khê”2.

Thung lũng Suối Vàng đó có nhiều dấu hiệu tỏ ra là một căn cứ của Hai Bà Trưng. Ngoài tên gọi ra (Kinh Khê - Suối Vàng) nơi đây còn là một vừng rừng núi kín đáo rất phù hợp với việc xây dựng căn cứ địa: sông Đáy là vòng hào phòng thủ tự nhiên thứ nhất của vùng này, sông Tích là vòng hào thứ hai, còn rừng cây bạt ngàn của dãy Ba Vì - Viên Nam là tấm áo giáp che chở hiệu nghiệm đồng thời là nguồn cung ứng phần nào lương thực và thực phẩm. Căn cứ này lại có lối thông vào Cửu Chân qua hành lang Miếu Môn - Nho Quan.

Ngoài ra, thung lũng Suối Vàng lại gần kề Hạ Lôi - Kẻ Lói, được coi là quê hương của Hai Bà và như vậy trở thành chỗ dựa về vật chất và nhất là về tinh thần cho hoạt động kháng chiến.

Một dấu hiệu khác nữa là thung lũng này ở ngay dưới chân núi Vua Bà, ngọn núi cuối cùng của dãy Tản Viên nam. Cái tên gọi ấy phải chăng liên quan tới Bà Trưng? Đành rằng trong tục lệ thờ phụng và tín ngưỡng dân gian của chúng ta có nhiều “vua bà”. Song ở đây, bên cạnh núi Vua Bà lại có cả núi Mã Viện tương truyền là nơi đóng quân của tên giặc già này. Vậy thung lũng Suối Vàng với núi Vua Bà, núi Mã Viện càng có khả năng là có liên quan tới sự kiện Hai Bà Trưng và là một chiến trường cổ thời đó3.
_____________________________________
1. H. Maxpêrô trong L’expédition de Mayuan - BEFEO XVIII - cho rằng Cấm Khê là Cẩm Khê và coi đó là huyện Cẩm Khê, Yên Bái. Nhưng cũng chính ông tìm ra cái tên huyện Cẩm Khê thực tế chỉ mới có từ năm 1841, trước đó là huyện Hoa Khê. Cho nên ông không nghiên cứu tiếp vấn đề Cấm Khê nữa, coi như chưa biết là ở đâu.
2. Văn Tân – Công tác nghiên cứu Hai Bà Trưng và cuộc khởi nghĩa do Hai Bà lãnh đạo trong mấy năm gần đây - Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử số 161.
3. Nếu sau này ngành khảo cổ đào được ở khu vực đó những vũ khí bằng đồng, bằng sắt và phát hiện những bãi táng tập thể thì đích thực đây là Cấm Khê.

chuongxedap:

VỀ THỜI GIAN VÀ DIỄN BIẾN CỦA CHIẾN SỰ Ở CẤM KHÊ

Như đã nêu ở trên, vẫn một bộ Hậu Hán thư mà ở mục Mã Viện truyện thì ghi: “Tháng Giêng năm Kiến Vũ thứ 19 (tức khoảng tháng 2 năm 43) chém Trưng Trắc, Trưng Nhị đệ đầu về Lạc Dương.” Tới mục Nam Man truyện lại ghi: “Tháng Tư năm Kiến Vũ thứ 19 (tức khoảng tháng 5 năm 43), Viện phá Giao Chỉ, chém Trưng Trắc, Trưng Nhị”.

Như vậy theo Hậu Hán thư, Hai Bà duy trì cuộc kháng chiến ở Cấm Khê được khoảng từ tám tháng đến một năm.

Nhưng cũng như đã nêu ở trên, theo Nam Việt chí thì thời gian đó là hai năm và theo Giao Châu ngoại vực ký thì thời gian đó lại là ba năm. (Sử Việt Nam như Toàn thư và Cương mục đều chép giống như mục Mã Viện truyện).

Thế là tài liệu về thời gian có chiến sự ở Cấm Khê khá là phân tán. Tuy nhiên, sự sai biệt về khoảng thời gian đó thật không đáng bận lòng. Vì dù là bảy tám tháng, một năm, hay hai ba năm thì cuộc kháng chiến ở Cấm Khê rõ ràng là nối tiếp cuộc khởi nghĩa mùa xuân năm 40 đã góp phần làm sáng tỏ thêm truyền thống bất khuất của dân tộc ta, đã nói lên cho kẻ thù biết rằng người Việt ở phương nam này không dễ gì chịu khuất phục thiên triều, mọi người sẵn sàng hy sinh ngay cả bản thân mình để bảo vệ độc lập và tự do!

Còn một vấn đề nữa mà chính sử cũng không có ghi chép gì, đó là vấn đề diễn biến của chiến sự tại Cấm Khê. Tuy vậy trong Hậu Hán thư, Mã Viện truyện, có một câu đáng chú ý: “Viện đuổi bọn Trưng Trắc đến Cấm Khê, đánh bại họ mấy lần”. Chi tiết này gián tiếp nói lên rằng tại Cấm Khê hai bên đã giao chiến nhiều trận. Đúng thế! Trong trận Lãng Bạc nghĩa quân chết tới mấy nghìn. (Hậu Hán thư, q.24). Quân Hán bị chết hẳn cũng không kém. Có thể Hai Bà đã thấy thế mạnh của quân xâm lược nên nghĩ đến việc phải rút về một căn cứ có đủ điều kiện “địa lợi, nhân hòa”. Căn cứ ấy phải là Cấm Khê, là thung lũng Suối Vàng vì như đã nêu ở trên, nơi đó địa thế rừng núi hiểm yếu có thể dựa vào “hình khe thế núi” để chiến đấu lâu dài. Nơi đó được bảo vệ bằng hai cái hào thiên tạo là sông Đáy và sông Tích nhất là sông Tích, một con sông chảy trên mép của một bậc thềm nên có khúc thì đôi bờ thoáng đãng nhưng cũng có khúc thì hai bên sông là những đồi gò vách thẳng đứng, rất thuận tiện cho việc bố trí phòng ngự. Nơi đó lại có lối ăn thông vào quận Cửu Chân, một hậu phương đáng tin cậy, bằng con đường qua hành lang Miếu Môn - Nho Quan tức con đường “thượng đạo” sau này. Sau hết, Cấm Khê đó lại kề sát Hạ Lôi - Kẻ Lói, có thể là đất bản bộ của lạc tướng Mê Linh, quê hương thân thuộc của Hai Bà.

Với giá trị chiến lược lợi hại như vậy, căn cứ Cấm Khê thực sự đã làm thất bại âm mưu đánh nhanh, thắng nhanh của Mã Viện. Tên giặc già này kết thúc trận Lãng Bạc vào mùa xuân năm 42 nhưng mãi tới mùa xuân (hoặc mùa hạ) năm 43 mới thắng được Hai Bà ở Cấm Khê. Trận Cấm Khê ấy - theo Hậu Hán thư - nếu chỉ kể mùa khô 42 - 43 thì chiến sự kéo dài trên sáu tháng. Theo Giao Châu ngoại vực ký và Nam Việt chí thì chiến sự còn dai dẳng kéo tới hai hoặc ba năm sau, tức là sau khi Hai Bà tử trận, nghĩa quân vẫn chiến đấu tiếp tục ở những chốt hiểm yếu, ở những triền núi, bìa rừng hiểm trở... Với khoảng thời gian ấy cùng với số người bị giết, bị bắt - của cả hai bên - có tới vài ba vạn, trận Cấm Khê quả là một trận chiến lớn thời đó. (Chỉ nói riêng cánh quân do Lưu Long chỉ huy cũng đã giết hơn một nghìn nghĩa quân và bắt sống hơn hai vạn người). Hẳn là Hai Bà Trưng đã huy động vào trận bảo vệ...

23 tháng 2 2022

Tham khảo:

Câu 2:

Khởi nghĩa Hương Khê (1885 - 1896)

- Địa bàn hoạt động chủ yếu: ở huyện Hương Khê và Hương Sơn (Hà Tĩnh), sau đó lan rộng ra nhiều tỉnh khác.

- Lãnh đạo: Phan Đình Phùng, Cao Thắng.

- Các giai đoạn:

+ Từ năm 1885 - 1889, nghĩa quân xây dựng lực lượng, rèn đúc vũ khí.

+ Từ năm 1889 - 1895, nghĩa quân đẩy lùi nhiều cuộc càn quét của địch. Sau khi Phan Đình Phùng hi sinh, cuộc khởi nghĩa dần dần tan rã.

- Đặc điểm: Mặc dù bị thất bại, nhưng đây là cuộc khởi nghĩa tiêu biểu, có quy mô lớn nhất, trình độ tổ chức cao và chiến đấu bền bỉ.

- Sau khởi nghĩa Hương Khê, phong trào yêu nước dưới ngọn cờ Cần vương, chịu ảnh hưởng của hệ tư tưởng phong kiến đã hoàn toàn thất bại. Phong trào yêu nước Việt Nam chuyển qua một giai đoạn mới.

 

23 tháng 2 2022

 Nêu phong trào kháng chiến chống Pháp những năm cuối thế kỷ 19:

- Phong trào Cần vương,bao gồm một số cuộc khởi nghĩa lớn như:

+ Khởi nghĩa Ba Đình (1886-1887)

+ Khởi nghĩa Bãi Sậy (1883-1892)

+ Khởi nghĩa Hương Khê (1885-1896)...

- Phong trào đấu tranh của nông dân Yên Thế và phong trào chống Pháp của đồng bào miền núi cuối thế kỉ XIX

Trình bày cuộc khởi nghĩa Hương Khê (1885-1995):

- Địa bàn hoạt động: 4 tỉnh bắc Trung Kỳ là Thanh Hóa,Nghệ An,Hà Tĩnh,Quảng Bình ,Cao Thắng

- Người lãnh đạo:Phan Đình Phùng

- Phương thức tác chiến: dựa vào địa hình hiểm trở,nghĩa quân đã sử dụng chiến thuật du kích đánh địch,vận dụng,tác chiến một cách linh hoạt

- Diễn biến:

+Giai đoạn 1( từ năm 1885-1888):nghĩa quân lo tổ chức,huấn luyện,xây dựng quân sự,rèn đúc vũ khí giới và tích trữ lương thảo,...

+Giai đoạn 2(từ năm 1888-1896): là thời từ chiến đấu của nghĩa quân,dựa vào vùng núi hiểm trở,có sự chỉ huy thống nhất và phối hợp tương đối chặt chẽ,nghĩa quân đẩy lùi nhiều cuộc hành quân càn quét của địch

- Kết quả:

+Nghĩa quân phải chiến đầu trong nhiều ngày gian khổ,lực lượng suy yếu dần

+ Phan Đình Phùng hi sinh ngày 28-12-1895,cuộc khởi nghĩa duy trì thêm một khoảng thời gian 

\(\Rightarrow\) Dần tan rã,thất bại

-Ý nghĩa: 

+ Đây được coi như là cuộc khởi nghĩa tiêu biểu nhất trong phong trào Cần Vương

+ Đóng vai trò quan trọng trong công cuộc đấu tranh chống lại quân xâm lược.

+ Thể hiện tinh thần bất khuất,kiên trung,đoàn kết của nhân dân.Lòng yêu nước,căm thù giặc cũng được bộc lộ một cách rõ ràng

+ Để lại nhiều bài học,kinh nghiệm quý báu

10 tháng 3 2022

Tham khảo

 

a. giống nhau :
+Thể hiện lòng yêu nước và ý chí đấu tranh chống thực dân Pháp để giải phóng dân tộc.
+Lực lượng tham gia phong trào đấu tranh chống Pháp là đông đảo quần chúng nhân dân lao động, chủ yếu là nông dân.
+ Cuối cùng đều bị thất bại vì thiếu giai cấp tiên tiến lãnh đạo với đường lối cách mạng đúng đắn .

b. Khác nhau :

+ Thời gian

Khởi nghĩa Yên Thế

30 năm (1884 — 1913), trong cả thời kì Pháp bình định và tiến hành khai thác thuộc địa lần thứ nhất.

Hương Khê

hơn 10 năm (1885- 1895)

+Thành phần lãnh đạo

Khởi nghĩa Yên Thế

Nông dân

Hương Khê

Quan lại, sĩ phu yêu nước

+ Mục tiêu đấu tranh

Khởi nghĩa Yên Thế

Chống Pháp, bảo vệ quê hương, làng xóm....

Hương Khê

Gíup vua đánh Pháp, khôi phục chế độ PK

+ Kết quả( nêu ở phần giống nhau)

6 tháng 4 2019

Đáp án: C

Giải thích: Mục…3 (phần II)….Trang…132...SGK Lịch sử 11 cơ bản

Mục tiêu: bảo vệ xóm làng, cuộc sống của mình, không phải là khôi phục chế độ phong kiến, bảo vệ ngôi vua như các cuộc khởi nghĩa cùng thời.

- Lãnh đạo: không phải các văn thân, sĩ phu mà là những người xuất thân từ nông dân với những phẩm chất đặc biệt (tiêu biểu là Hoàng Hoa Thám): căm thù đế quốc, phong kiến, mưu trí, dũng cảm, sáng tạo, trung thành với quyền lợi của những người cùng cảnh ngộ, hết sức thương yêu nghĩa quân.

- Lực lượng tham gia: đều là những người nông dân cần cù, chất phác, yêu cuộc sống.

- Địa bàn hoạt động: khởi nghĩa Yên Thế nổ ra ở vùng rừng núi trung du Bắc Kì.

- Về cách đánh: nghĩa quân Yên Thế có lối đánh linh hoạt, cơ động, giảng hòa khi cần thiết,...

- Thời gian tồn tại: cuộc khởi nghĩa tồn tại dai dẳng suốt 30 năm, gây cho địch nhiều tổn thất.

- Ý nghĩa: khởi nghĩa Yên Thế tiêu biểu cho tinh thần quật khởi của nông dân, có tác dụng làm chậm quá trình xâm lược, bình định vùng trung du và miền núi phía Bắc của thực dân Pháp.

- Tính chất: là một phong trào yêu nước, không nằm trong phong trào Cần Vương.



 

 

TL
10 tháng 5 2021

Khác nhau:

- Cuộc khởi nghĩa Hương Khê của Phan Đình Phùng:

diễn ra ở vùng núi Hương Khê Hà Tĩnh,nghĩa quân đã đánh thắng được nhiều trận và dành thắng lợi tuy nhiên do không có đường lối chinh sách đánh trận hợp lý nên khởi nghĩa mau chóng bị đàn áp.

- Cuộc khởi nghĩa Yên Thế:

diễn ra ở vùng núi phía bắc,khởi nghĩa do Hoàng Hoa Thám chỉ huy,cuộc khởi nghĩa có qui mô rộng hơn,thu hút được đông đảo nhân dân tham gia,bên cạnh đó,nhờ chính sách hợp lí nên khởi nghĩa kéo dài rất lâu đến hơn 10 năm.

Giống nhau:

Cả hai cuộc khởi nghĩa đều cho thấy tinh thần yêu nước nồng nàn của nhân dân Việt Nam, đồng thời khắc sâu mối thù của quân dân ta với thực dân Pháp dã man.Thêm đó,do các cuộc khởi nghĩa thời kỳ này do chưa có đường lối đúng đắn nên dễ dàng bị đàn áp.Các cuộc khởi nghĩa thời kỳ này đã tạo tiền đề cho hàng loạt các cuộc khởi nghĩa mới của đầu thế kỷ 20 dành thắng lợi.

16 tháng 8 2018

Chọn đáp án C

Ngày 16 tháng 9 năm 1950, trung đoàn 174 và trung đoàn 209 của quân Việt Minh chủ động đánh chiếm cứ điểm Đông Khê mở màn chiến dịch biên giới với mục đích cô lập Cao Bằng, uy hiếp cứ điểm Thất Khê và phá thế trận phòng thủ của quân Pháp trên đường số 4. Đông Khê do hai đại đội lính Lê Dương thuộc tiểu đoàn 2 trung đoàn 3 lê dương trấn giữ. Đến ngày 18, cứ điểm Đông Khê hoàn toàn thất thủ, mặc dù đã được không quân yểm trợ. Pháp nhanh chóng điều động quân đội ở Bắc Bộ thực hiện cuộc "hành quân kép": một cánh do trung tá Le Page chỉ huy hành quân từ Thất Khê lên nhằm chiếm lại cứ điểm Đông Khê mở lại đường số 4 và thu hút chủ lực của quân Việt Minh; một cánh do trung tá Charton chỉ huy rút từ Cao Bằng xuống gặp Le Page ở Đông Khê. Như vậy, đáp án của câu hỏi phải là : Hành quân lên Thái Nguyên và cho quân từ Thất Khê lên đón cánh quân từ Cao Bằng rút về.

7 tháng 4 2019

Đáp án C

Ngày 16 tháng 9 năm 1950, trung đoàn 174 và trung đoàn 209 của quân Việt Minh chủ động đánh chiếm cứ điểm Đông Khê mở màn chiến dịch biên giới với mục đích cô lập Cao Bằng, uy hiếp cứ điểm Thất Khê và phá thế trận phòng thủ của quân Pháp trên đường số 4. Đông Khê do hai đại đội lính Lê Dương thuộc tiểu đoàn 2 trung đoàn 3 lê dương trấn giữ. Đến ngày 18, cứ điểm Đông Khê hoàn toàn thất thủ, mặc dù đã được không quân yểm trợ. Pháp nhanh chóng điều động quân đội ở Bắc Bộ thực hiện cuộc "hành quân kép": một cánh do trung tá Le Page chỉ huy hành quân từ Thất Khê lên nhằm chiếm lại cứ điểm Đông Khê mở lại đường số 4 và thu hút chủ lực của quân Việt Minh; một cánh do trung tá Charton chỉ huy rút từ Cao Bằng xuống gặp Le Page ở Đông Khê. Như vậy, đáp án của câu hỏi phải là : Hành quân lên Thái Nguyên và cho quân từ Thất Khê lên đón cánh quân từ Cao Bằng rút về

22 tháng 4 2022

- Địa điểm căn cứ của Ba Đình là: Ba làng: Mậu Thịnh, Thượng Thọ, Mĩ Khê thuộc huyện Nga Sơn (Thanh Hóa)​ 

- Địa điểm căn cứ của Bãi Sậy là : Nổ ra ở Bãi Sậy (Hưng Yên) sau lan rộng ra các tỉnh Hưng Yên, Hải Dương, Bắc Ninh, Thái Bình,…​

- Địa điểm căn cứ của Yên Thế là :

+Ở phía Tây bắc tỉnh Bắc Giang.

​ + Địa hình hiểm trở.​ 

=> Căn cứ tưng đối rộng, thuận lợi cho lối đáng du kích.​

- Địa điểm hoạt động của Hương Khê là : 4 tỉnh bắc Trung Kì: Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình.​(Căn cứ chính là ở Ngàn Trươi và Vụ Quang).​