Cho mình 3 ví dụ về từ láy( từ láy phần vần).
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.


1.
"Cũng trông lại mà cùng chẳng thấy,
Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu.''
=> Từ láy ''xanh xanh''
Tác dụng: Giúp cho câu thơ giàu tính biểu cảm
Cho thấy sự mênh mang của cây cối, của khoảng cách xa vời
2.
''Con đê cát đỏ cỏ viền
Leng keng nhạc ngựa ngược lên chợ Gò. ''
=> Từ láy: leng keng
Tác dụng: Giúp cho câu thơ giàu sức gợi
Cho thấy âm thanh nhạc ngựa cất lên nhẹ nhàng, êm dịu

ăn năn: cảm thấy day dứt, dày vò trong lòng mà mình đã mắc phải
vd: sau khi tôi đánh mất quyển vở của bạn tôi cảm thấy rất ăn năn
Từ láy: Vất vả.
Ý nghĩa: tình trạng phải bỏ nhiều công sức và trí lực vào một việc gì đó.
Ví dụ: Mẹ đã rất vất vả để nuôi tôi khôn lớn, trưởng thành.

vườn hoa nhà em sáng nào cũng được tắm dưới ánh nắng mặt trời. Trong vườn, mấy cây hoa thi đua nhau khoe sắc như chứng tỏ rằng mình đẹp nhất. Vào những buổi chiều mát mẻ, gió thồi làm mấy cây hoa rung rinh, rung rinh trông như một bãi biển nhỏ trong góc vườn...
mik chỉ viết ngắn thế thôi, còn bạn muốn viết thêm thì tuỳ ý nhé.
từ láy: rung rinh, mát mẻ.
từ ghép: khoe sắc, vườn hoa, góc vườn,...
từ nhiều ngĩa: hoa ( hoa tay,...), đẹp ( đẹp đôi, xinh đẹp,..),
mik làm theo cách nghĩ của mik thôi. nếu sai mong bạn thông cảm.
có vẻ hơi ít câu nhỉ đoạn văn phải có ít nhất 10 đến 20 câu chứ

vd:
Program chuongtrinhnhapmang;
var n:integer;
begin
write('Nhap n='); readln(n);
end;
Những từ in đậm là từ khóa
in nghiêng là tên chương trình

Nội dung ý nghĩa là một bình diện của từ. Nó là cái được biểu đạt của mỗi từ. Do đó, muốn đạt được hiệu quả giao tiếp, khi nói, cũng như khi viết, phải dùng từ cho đúng với ý nghĩa của từ. Hướng tới yêu cầu này, cần chú ý tới các phương diện cụ thể sau:
Từ được dùng phải biểu hiện được chính xác nội dung cần thể hiện, tức là ý nghĩa của từ phải phù hợp với nội dung định thể hiện. Có trường hợp không đạt được sự phù hợp này. Ví dụ:
“ Hoạt động y tế cơ sở là hoạt động thầm kín”
Thầm kín là trạng thái yên lặng và kín đáo, không để lộ điều bí mật. Với nghĩa này, nó không phù hợp với nội dung định thể hiện . Trong câu trên cần dùng từ thầm lặng với nghĩa không ồn ào, sôi động nhưng không phải giữ bí mật.
Nghĩa của từ bao gồm cả thành phần nghĩa sự vật, cả thành phần nghĩa biểu thái( biểu hiện thái độ, tình cảm, cảm xúc của con người). Trong tiếng Việt, có một số từ biểu thị cùng một nghĩa nhưng có rất nhiều từ để diễn đạt. Vì vậy, khi sử dụng chúng ta phải chú ý để làm sao dùng từ không chỉ đúng về nghĩa mà còn phải thể hiện được thái độ, tình cảm của mình đối với vấn đề cần hướng tới. Ví dụ như các từ :chết, mất, hi sinh, qua đời, từ trần, băng hà, ngàn, ngỏm, ngoẻo, toi, …; cho, biếu, tặng, hiến ,dâng, thí ,bố thí,…
Nghĩa của từ bao gồm cả nghĩa đen và nghĩa bóng (Nghĩa gốc, nghĩa chuyển đổi, nghĩa phái sinh) tạo nên hiện tượng nhiều nghĩa. Các nghĩa này phát triển từ nghĩa gốc và có quan hệ với nhau trên cơ sở duy trì một nét nghĩa giống nhau nào đó. Ví dụ như các từ đầu( đầu năm, đầu tháng, đầu tuần, đầu làng, đầu nhà, đầu núi,…); chân ( chân thành, chân tình, chân núi, chân mây,…)
Bởi vậy, khi muốn dùng một từ theo cách chuyển đổi ý nghĩa, cần phải dựa vào nghĩa đen, nghĩa gốc của từ. Hơn nữa, khi đánh giá một từ là đúng hay sai phải căn cứ vào mối liên hệ với nghĩa gốc của từ. Có những từ lần đầu tiên được dùng với nghĩa chuyển đổi nào đó, nhưng theo đúng quy luật chuyển đổi thì vẫn được coi là dùng đúng và có phần sinh động. Chẳng hạn, với cách dùng từ “ sống’ trong câu “ Học sinh được thực hành trên máy sống”thì từ sống ở đây không phải được dùng theo nghĩa gốc “Sinh vật ở trạng thái có trao đổi chất với môi trường, có sinh đẻ,lớn lên và chết” mà với nghĩa chuyển đổi “ Ở trạng thái vận động được, làm việc được”. Nghĩa chuyển đổi này có liên hệ với nghĩa gốc. “Máy sống tức là máy còn vận hành, hoạt động được”. Cho nên, từ “sống” trong trường hợp này được công nhận là đúng.
Nhân ngày Nhà giáo Việt Nam, toàn thể học sinh trên cả nước bày tỏ niềm biết ơn sâu đậm đến các thầy cô.
Sâu đậm -> Sâu sắc

Tham khảo
Những ý nêu đúng công dụng của từ điển:
A. Cung cấp thông tin về từ loại (danh từ, động từ, tính từ,...).
B. Cung cấp cách sử dụng từ thông qua các ví dụ.
D. Giúp hiểu nghĩa của từ.
Chọn A, B, D

“Học để làm việc”: Trước tiên chúng ta đến trường học tập là để làm việc, như vậy muốn làm được việc thì phải học và học là một quá trình thu nhận kiến thức tự nhiên - xã hội… từ đó áp dụng những gì mình thu luợm được để thực hành thông qua việc làm thì mới hòng thu được kết quả. Dân gian ta có câu: “Không thầy đố mày làm nên”. Làm việc trước hết là làm cho bản thân tồn tại và sinh sống, sau đó làm việc để giúp gia đình cha, mẹ, anh em xây dựng cuộc sống ấm no hạnh phúc, kế tiếp là làm việc nhằm góp sức mình vào công cuộc xây dựng đất nước ngày càng giàu mạnh.
Học tập tốt sẽ tạo ra nhận thức nhìn nhận việc gì có ích và việc gì có hại cho cá nhân, tập thể và cộng đồng dân cư. Từ đó việc gì có ích ta cố gắng làm cho được, việc gì không có ích thì ta cần tránh như Bác Hồ đã từng nói: “Việc gì có lợi cho dân ta phải hết sức làm. Việc gì có hại cho dân ta phải hết sức tránh”
Như vậy học để làm việc một cách có khoa học đem lại hiệu quả thiết thực cho bản thân, gia đình và xã hội. Làm việc có kết quả là biểu hiện tư cách của người chân chính, là thước đo danh dự và uy tín của con người có học.
Hiện nay, có tình trạng học chỉ để lấy bằng cấp, học vị để từ đó có cái mác mà giành lấy chức quyền, danh vọng chứ không phải học để làm được việc, để gánh vác trách nhiệm trước nhân dân.
“Học để làm người”: Chủ tịch Hồ Chí Minh nói “Muốn xây dựng CNXH trước hết phải có con người XHCN”. Học tập để nâng cao trình độ, khả năng làm việc và rèn luyện đạo đức cách mạng phải gắn bó mật thiết với nhau, hoà quyện vào nhau trở thành bản lĩnh của con người. Làm người phải là có tình có nghĩa, tình cảm chân thành với mọi người, kính già, mến trẻ tin yêu con người và biết sống “Mình vì mọi người”. Làm người phải biết trung, biết hiếu, biết giữ trọn chữ tình, biết kính trọng người thân, nhân dân, biết đối xử có nghĩa có tình với anh, em, bè bạn và mọi người xung quanh. Học tập tấm gương của các Hiền nhân về đạo làm người, nhất là học tập tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh để rèn luyện bản thân trở thành con người có ích cho xã hội. Trong suốt cuộc đời luôn luôn phải tự kiểm điểm soi mình vào tấm gương sáng để gọt rửa những cái xấu xây dựng cái tốt cái đẹp nhằm hoàn thiện bản thân thành con người được xã hội trọng vọng, có như vậy chúng ta mới trở thành con người như trong câu nói của Bác.
“Học để làm cán bộ”: Có biết học làm người mới xứng đáng làm cán bộ và chỉ có ai biết “làm Người” mới biết “làm cán bộ”. Làm cán bộ là được Đảng và nhân dân trao chức quyền để lãnh đạo, chỉ đạo, dẫn dắt những người khác thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng pháp luật của Nhà nước, vì vậy học tập với một thái độ nghiêm túc, cầu thị thì mới làm được người cán bộ tốt. Làm cán bộ mà không chịu học để “làm người” thì họ tự làm hỏng bản thân mình đồng thời làm hỏng rất nhiều người dưới quyền của mình. Làm cán bộ là đảm nhiệm trọng trách trước Đảng và nhân dân về đời sống kinh tế - xã hội, văn hoá tinh thần của nhân dân, làm người cán bộ phải trung thành và tận tuỵ phục vụ nhân dân. Là người cán bộ phải biết “lấy dân làm gốc” và phải biết quyền lợi của dân là cao nhất nên làm cán bộ rồi lại càng phải học. Nếu chỉ học để lấy bằng cấp, lấy chức quyền thì học không có ý nghĩa gì, ngược lại chỉ làm hại cho dân cho nước mà thôi.
Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy:
“Học để phụng sự đoàn thể
Phụng sự giai cấp và nhân dân
Phụng sự Tổ quốc và nhân loại”.
Do vậy học là công việc của cả một đời người, nhất là làm cán bộ thì càng phải nỗ lực hơn nhiều trong học tập.
Làm cán bộ thường được đánh giá qua thái độ của họ đối với bản thân, đối với người và đối với công việc.
Đối với mình phải: cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, không hiếu danh, không kiêu ngạo, phải biết tự kiềm chế, ít long ham muốn về vật chất, phải thật thà tự phê bình và nhất là phải “Cả quyết sửa lỗi mình”. Tự biết mình, đánh giá đúng bản thân để biết phát huy ưu điểm, khắc phục khuyết điểm, nỗ lực vươn lên, đó là người cán bộ có nhân cách.
Đối với người: Phải trung thực khoan dung, chân tình giúp đỡ; không dối trên lừa dưới, tuyệt đối không được dung thủ đoạn với đồng chí, với đồng nghiệp, không nói một đàng làm một nẻo, giả dối, lừa mỵ. Làm người cán bộ giữ cương vị phụ trách phải luôn luôn chiếm được lòng tin yêu, kính trọng của những người cộng sự của cấp dưới bằng chính sự ngay thẳng và long chung thuỷ của bản thân mình, tình cảm của mọi người đối với người phụ trách là sự phản chiếu tình cảm người phụ trách đối với họ. Từ trái tim mình đến với trái tim đồng chí chỉ có thể đi bằng con đường được xây nên bởi sự chân thành, tình yêu thương, long nhân ái và vị tha. Tính nguyên tắc, ý thức kỷ luật và tình cảm cách mạng thống nhất với nhau trong cách “đối nhân xử thế” thể hiện rõ ở tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh mà mọi người cán bộ chúng ta phải phấn đấu noi theo.
Đối với việc: Phải xem xét kỹ càng để tránh giáo điều, chủ quan, duy ý chí, ảo tưởng nôn nóng, bi quan, dao động… trong công tác phải quyết đoán, dũng cảm. Dựa dẫm, ỷ lại, không cá tinh thần phụ trách là cái mà người cán bộ cần phải tránh. Xuất phát từ lợi ích của nhân dân mà làm việc, đó là nguyên tắc bất biến. Năng động sang tạo để làm việc có kết quả cao là cái vạn biến. “Dĩ bất biến ứng vạn biến” là lời chỉ dẫn vô cùng sáng suốt của chủ tịch Hồ Chí Minh đối với tất cả chúng ta.
Làm người cán bộ dễ mắc phải một số bệnh có tính phổ biến mà Bác đã chỉ ra để răn dạy, nhắc nhở, phòng ngừa.
Địa phương cục bộ: Chỉ chăm chú, bênh vực, vun vén cho địa phương hoặc bộ phận mình phụ trách, gây tổn hại đến lợi ích chung, gây nên sự chia rẽ và tạo ra tâm lý ích kỷ.
Óc bè phái: Thường gây ra tai hại lớn, làm nội bộ mất đoàn kết, Đảng mất cán bộ và làm hỏng việc, bè phái là tạo ra phe cánh, lôi kéo về mình những người răm rắp theo mình không sử dụng được người tài do đó chất lượng công việc không cao.
Bệnh hẹp hòi: không muốn ai hơn mình, thấy người trẻ mới được đề bạt thì tìm mọi cách dìm người ta xuống để tranh giành chức quyền. Họ quyên lời Bác dạy là: “Trong lãnh đạo cần có già, có trẻ” nhưng phải cùng nhau phấn đấu cho mục tiêu chung của cơ quan đoàn thể…Lời dạy bảo ân cần và nghiêm khắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh hẳn chúng ta còn nhớ: “Có những đồng chí còn giữ óc địa vị, cố tranh cho được làm uỷ viên này, chủ tịch kia. Có những đồng chí lo ăn ngon mặc đẹp, lo chiếm của công làm của tư, lợi dụng địa vị và công tác của mình mà buôn bán phát tài, lo việc riêng hơn việc công. Có những đồng chí còn gữ thói “một người làm quan cả họ được nhờ”.
Thiết nghĩ mỗi một đồng chí cán bộ cơ sở đến trường học tập và rèn luyện để rồi lại trở về địa phương làm cán bộ, hơn ai hết các đồng chí phải thật thấm nhuần và luôn phấn đấu thực hiện thắng lợi khẩu hiệu nhà trường đề ra. “Học để làm việc, làm người, làm cán bộ. Học để phụng sự đoàn thể, giai cấp và nhân dân, Tổ quốc và nhân loại”. Như vậy đã là một người cán bộ to hay nhỏ thì việc học là nhiệm vụ suốt đời của người cán bộ./.
Nước ta là nước ngàn năm văn hiến, luôn luôn đề cao vai trò của việc học. Song mỗi người lại có những phương pháp, mục đích học tập khác nhau. Nói về cách xác định đúng đắn mục đích của việc học, UNESCO đã từng đề xướng : “Học để biết, học để làm, học để chung sống, học để tự khẳng định mình”. Lời nhận định trên của UNESCO đã một lần nữa khẳng định vai trò to lớn của việc xác định mục đích học tập đúng đắn đối với mỗi cá nhân.
Học là quá trình con người lĩnh hội kiến thức về khoa học kĩ thuật, văn hóa xã hội và nhất là học để con người học cách chung sống cùng cộng đồng. Quá trình học của con người diễn ra một cách liên tục, người ta học ở mọi lúc và mọi nơi. Như nhà cách mạng vĩ đại nước Nga đã từng nói : “Học, học nữa, học mãi”(Lê-nin). “Học để biết” là quá trình con người tiếp nhận tri thức để mở mang hiểu biết cá nhân. “Học để làm, học để chung sống, học để tự khẳng định mình” là cách con người ta áp dụng những lí thuyết vào trong thực tế lao động và sản xuất, học cách đối nhân, xử thế trong cuộc sống thường nhật. Và từ việc học để biết, học để làm, học để chung sống sẽ tạo cho mỗi cá nhân một vị thế, một chỗ đứng riêng trong xã hội để tự khẳng định mình.
UNESCO đã khẳng định vai trò to lớn của việc xác định mục tiêu học tập đúng đắn của mỗi cá nhân. Chỉ khi có được mục tiêu học tập đúng đắn con người mới xác định rõ phương pháp học tập để mang lại kết quả tốt nhất. Điều đó đặc biệt quan trọng đối với những thế hệ thanh, thiếu niên, những chủ nhân tương lai của đất nước. Hơn thế nữa điều này còn phù hợp với đất nước ta khi đang trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế.
Mục đích đầu tiên của việc học mà UNESCO đề cập tới là “học để biết”. Mục tiêu này được đặt lên hàng đầu là bởi: Kho tàng trí tuệ của nhân loại là vô tận mà con người chỉ như một hạt cát giữa sa mạc hay một giọt nước giữa đại dương mênh mông. Con người phải không ngừng học tập để tiếp nhận và bắt kịp với những tri thức đang ngày càng mở rộng của nhân loại. Học mở mang trí tuệ, hiểu biết cho ta, dẫn dắt ta vào những chỗ sâu sắc, bí ẩn của thế giới xung quanh, từ sông ngòi, rừng núi cho tới vũ trụ bao la. Học đưa ta vào những thế giới cực lớn như thiên hà, hoặc cực nhỏ, như thế giới của các hạt vật chất. Học đưa ta vượt thời gian, tìm về với những biến cố lịch sử xa xưa hoặc chắp cánh cho ta tới ngày mai, và để hiểu sâu sắc hơn về thực tại. Quan trọng hơn cả việc học để biết sẽ tạo nền tảng cho việc thực hiện và áp dụng vào công việc sau này. Vậy nên con người phải không ngừng lĩnh hội những tri thức của nhân loại để làm giàu thêm hiểu biết cá nhân.

Tham khảo :
Câu 1 :
Danh từ : Con mèo .
VD : Nhà em mới mua một con mèo tam thể rất đẹp .
Động từ : Học võ .
Bạn Linh rất thích học võ .
Tính từ : Rực rỡ .
VD : Những bông hoa đang nở rực rỡ .
Câu 2 :
Nàng ca sĩ họa mi đang cất lên những tiếng hát trong trẻo .
Phép tu từ : Nhân hóa .
Câu 3 :
Qua bao thời gian, giờ đây, mẹ đã ngoài ba mươi tuổi nhưng trông mẹ tôi vẫn còn rất trẻ lắm. Thời gian trôi qua, những gánh nặng vất vả của cuộc giống làm phai màu tóc mẹ. Đôi vai gầy ấy đã gánh vác biết bao điều để lo toan cho cuộc sống của chị em tôi. Khuôn mặt trái xoan của mẹ luôn tạo nên sự gần gũi , thân thiện . Bởi vậy , trong công việc, hầu như ai cũng yêu quý mẹ. Tôi chẳng thể quên được đôi bàn tay đầy vết chai sạn; đã dạy cho tôi những nét chữ đầu tiên, dìu dắt tôi bước đầu trên đường đời. Mẹ tôi tần tảo sớm hôm chăm lo cho tôi và gia đình nhỏ, mỗi khi đi làm về dù rất mệt nhưng mẹ vẫn phải nấu cơm. Tôi nhớ nhất một hôm, lúc nào đó vào buổi tối, mẹ bảo tôi đi ngủ, tôi chỉ lên gường và giả vờ ngủ. Vì mẹ tôi là thợ may, nên để kiếm thêm thu nhập, mỗi tối mẹ thường nhận thêm công việc sửa chữa quần áo. Từ ánh đèn hắt ra, mẹ tôi ngồi đó, tay đưa chỉ, tiếng bàn đạp từ máy khâu vang lên nhịp nhàng đều đều trong đêm vắng. Nhìn cảnh tượng đó tôi chợt nhớ tới câu thơ tôi từng đọc:" Tôi hoảng sợ ngày bàn tay mẹ mỏi/ Mình vẫn còn một thứ quả non xanh?" và lòng thầm tự hứa với mẹ, con sẽ trở thành đứa con ngoan trò giỏi để không phụ công ơn của mẹ.
Tham khảo nhé:
1. Danh từ: Cái quạt
Động từ:chạy
Tính từ: Đẹp
2. Tiếng suối trong như tiếng hát xa
Biện pháp nghệ thuật: Só sánh
3.
Trong gia đình em, người mà em yêu quý và kính trọng nhất là mẹ.
Năm nay, mẹ ba sáu tuổi. Dáng người thon thả. Mái tóc dài mượt mà và óng ả. Khuôn mặt trái xoan. Đôi mắt mẹ sáng long lanh như ngọn đuốc dõi theo từng bước đi của em. Môi mẹ đỏ tươi, luôn in lại những nụ cười rạng rỡ. Làn da của mẹ trắng mịn như được thoa một lớp phấn. Mẹ ăn mặc rất giản dị nhưng lại toát lên vẻ sang trọng. Hằng ngày, ngoài những công việc giảng dạy ở trường và tham gia các công tác đoàn thể mẹ còn phải lo chăm sóc chu đáo cho gia đình. Tối đến, dù bận soạn bài nhưng mẹ vẫn dành thời gian giảng bài cho em. Những hôm em ốm, nhờ có bàn tay mẹ chăm sóc mà em đã nhanh khỏi để đến trường. Hằng ngày, mẹ phải dậy sớm để lo bữa sáng cho gia đình. Công việc bận rộn như vậy nhưng lúc nào mẹ cũng rất vui. Mẹ không những là người mẹ dịu dàng, đảm đang mà mẹ vừa là người chị, người bạn của em những lúc vui buồn. Có mẹ, em thấy ấm lòng. Em rất kính trọng mẹ em, mẹ xứng đáng là người "Giỏi việc trường, đảm việc nhà" mà nhà trường đã trao tặng danh hiệu cho mẹ trong công tác.
Em rất yêu quý mẹ em. Em sẽ cố gắng học giỏi để xứng đáng với công sinh thành và nuôi dưỡng của mẹ.

tk
Từ láy là một trong 2 dạng của từ phức, từ còn lại là từ ghép. Cả hai loại từ này đều có cấu tạo từ 2 tiếng trở lên và thường được sử dụng trong văn bản, giao tiếp. Tuy nhiên có nhiều người chưa phân biệt được thế nào là từ ghép, từ láy là gì? Hãy cùng theo dõi bài viết này để tìm ra sự khác biệt giữa 2 loại từ phức này.

Từ láy là dạng đặt biệt của từ phức, được cấu tạo từ 2 tiếng, trong đó phần nguyên âm hoặc phụ âm được láy giống nhau hoặc chỉ 1 phần nguyên âm và phụ âm láy như nhau. Khác với từ ghép đa phần các từ cấu thành đều có nghĩa, từ láy có thể chỉ 1 từ có nghĩa, có thể không từ nào có nghĩa khi đứng riêng một mình.
Từ láy thường đươc sử dụng nhiều trong thơ ca, tác phẩm văn học để mô tả, nhấn mạnh vẻ đẹp phong cảnh con người hoặc diễn đạt cảm xúc, tâm trạng, âm thanh và nhiều hoạt động khác.
Các loại từ láyVề cơ bản từ láy đươc chia thành 2 loại gồm từ láy toàn bộ và từ láy bộ phận.
Từ láy toàn bộ: Là loại từ đươc láy giống nhau cả phần âm, vần, dấu câu ví dụ như xanh xanh, ào ào. Đôi khi để nhấn mạnh một âm thanh hay hành động mà dấu câu có thể khác nhau như thăm thẳm, lanh lảnh…
Từ láy bộ phận: Là loại từ được láy giống phần âm hoặc phần vần, dấu câu có thể giống hoặc khác tùy vào cách người dùng muốn. Ví dụ như ngơ ngẫn, lác đác, dào dạt… Từ láy bộ phận thường được sử dụng nhiều hơn từ láy toàn bộ vì dễ phối vần và âm.
Cách phân biệt từ láy và từ ghépCấu tạo từ vựng Việt Nam phức tạp và rất khó để nhận biết 2 loại từ này, dưới đây là một vài đặc điểm giúp bạn xác định đâu là từ ghép và từ láy nhanh nhất.
Nghĩa của các từ tạo thành
Đối với từ ghép thì có thể cả 2 từ tạo thành đều có nghĩa cụ thể, còn từ láy thì có thể không từ nào có nghĩa hoặc chỉ đúng 1 từ có nghĩa.
Ví dụ: Hoa quả là từ ghép và từ “hoa”, “quả” khi đứng riêng đều có nghĩa xác định. Còn từ long lanh thì chỉ “long” có nghĩa, còn “lanh” thì không xác định là nghĩa như thế nào khi đứng riêng. Vì vậy ngoài dấu hiệu giống nhau về âm hoặc vần thì nghĩa của từng từ sẽ quyết định đó là dạng từ nào.
Giữa 2 tiếng tạo thành từ
Nếu không có liên quan về âm hoặc vần thì đó chắc chắn là từ ghép và ngược lại là từ láy.
Ví dụ: Cây lá là từ ghép và không có âm hoặc vần giống nhay, còn chắc chắn thì phụ âm đầu giống nhau nên là từ láy.
Đảo vị trí các tiếng trong từ
Đối với từ ghép khi ta đổi trật từ vị trí các tiếng thì vẫn có ý nghĩa cụ thể, còn từ láy thì không có ý nghĩa nào.
Ví dụ: Từ “đau đớn” khi đảo vị trí thành “đớn đau” thì có nghĩa nên đó là từ ghép. Từ “rạo rực” đổi lại thành “rực rạo” thì không có nghĩa gì, nên là từ láy.
Một trong 2 từ là từ Hán Việt
Nếu gặp từ có dấu hiệu như trên thì chắc chắn đó không phải là từ láy.
Ví dụ như từ “Tử tế” thì “tử” là từ Hán Việt, cho dù nó láy âm đầu nhưng vẫn được xếp vào dạng từ ghép.
Lưu ý: Những từ được Việt hóa như tivi, rada là từ đơn đa âm tiết, nó không được xếp là từ láy hoặc từ ghép.
Tiếng Việt có vốn từ đa dạng và phong phú, vì vậy trong thời gian ngắn có thể bạn sẽ không thể phân biệt chính xác giữa từ láy và từ ghép. Nhưng khi tiếp túc thường xuyên khi đọc nhiều bài thơ, tiểu thuyết, truyện ngắn thì trình độ của bạn sẽ được nâng cao nhiều.
Dễ nha
Lặn lội , lung linh , luyến láy