Hãy kể về tiểu sử Trần Cảnh
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.


Hồ Quý Ly (chữ Hán: 胡季犛; 1336 – 1407), tự Lý Nguyên, là hoàng đế sáng lập nhà Hồ Việt Nam. Ông trị vì được 1 năm thì trao ngôi cho con là Hồ Hán Thương để lên ngôi làm Thái thượng hoàng, cho đến khi ông bị bắt qua nhà Minh sau khi bị thua trận vào năm 1407.
Hồ Quý Ly trước có tên là Lê Quý Ly (黎季犛), tên tự là Lý Nguyên (理元). Ông sinh năm Ất Hợi (1335), quê ở Đại Lại, Vĩnh Lộc (nay là xã Hà Đông, huyện Hà Trung, Thanh Hóa). Về dòng dõi Hồ Quý Ly, sách Đại Việt sử ký toàn thư, quyển VII chép:[1]
...Tổ tiên Hồ Quý Ly là Hồ Hưng Dật, vốn là người Triết Giang bên Trung Quốc, thời Hậu Hán (947-950) được vua Hán cử sang làm Thái thú Châu Diễn (tức vùngDiễn Châu, Nghệ An). Đến thời loạn mười hai sứ quân, họ Hồ dời vào hương Bào Đột (nay là xã Quỳnh Lâm, Quỳnh Lưu, Nghệ An) và trở thành một trại chủ. Đến thời Lý, trong họ có người lấy công chúa Nguyệt Đích, sinh ra công chúa Nguyệt Đoan. Đời cháu thứ 12 của Hồ Hưng Dật là Hồ Liêm dời đến ở hương Đại Lại, Vĩnh Lộc, Thanh Hóa. Hồ Liêm làm con nuôi của Tuyên úy Lê Huấn rồi lấy họ Lê làm họ của mình. Hồ Quý Ly là cháu 4 đời của Lê Liêm, khi lên làm vua thì đổi lại họ Hồ...
Mẹ Hồ Quý Ly là con gái Phạm Bân, một thầy thuốc giỏi người huyện Vĩnh Lộc, là quan Thái y dưới triều Trần Anh Tông. Hồ Quý Ly còn có hai người cô trong họ làm phi tần củaTrần Minh Tông, một bà sinh ra Trần Nghệ Tông, một bà sinh ra Trần Duệ Tông.[cần dẫn nguồn]
Theo sách Việt sử tiêu án: Quý Ly tìm kín được dòng máu họ Hồ, muốn trở lại họ cũ, bèn lấy tên Hồ Cương làm người tâm phúc.[2]
Hồ Quý Ly thưở nhỏ theo học võ Nguyễn Sư Tề, sau đỗ thi Hương, rồi đỗ khoa Hoành từ.[3] Hai chị em bà cô của Hồ Quý Ly đều làm cung nhân của vua Trần Minh Tông; bà Minh Từ sinh ra Trần Nghệ Tông; bà Đôn Từ sinh ra Trần Duệ Tông. Theo Đại Việt sử ký toàn thư, vì lí do này mà vua Trần Nghệ Tông mới lên ngôi rất tín nhiệm Quý Ly, lại đem em gái mới góa chồng là công chúa Huy Ninh gả cho.[4]
Theo Minh thực lục, Li Ji-li (黎季犛 - Lê Quý Ly) vốn là con của một cựu võ quan là Li Guo-mao (黎國耄 - Lê Quốc Mạo) hoặc Li Guo-qi (黎國耆 - Lê Quốc Kỳ), sau khi cướp ngôi vua, Li Ji-li (黎季犛 - Lê Quý Ly) đổi tên thành Lê Nhất Nguyên (Li Yi-yuan - 黎一元)[5] hoặc Hồ Nhất Nguyên (胡一元).[6][7]

bạn có thể tra trên mạng hơcj là đọc trg sách y, nó sẽ có 1 số ý
Lý Công Uẩn (974 - 1028), người làng Cổ Pháp, tức làng Đình Bảng, phủ Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Ông là vị vua sáng nghiệp của nhà Lý và cũng là người sáng lập kinh đô Thăng Long - một trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá trường tồn của đất nước.Dưới triều nhà Tiền Lê, ông làm quan đến chức Điện tiền chỉ huy sứ (殿前指揮使), là một chức quan võ chỉ huy quân đội bảo vệ kinh đô Hoa Lư bấy giờ. Năm 1005, Lê Trung Tông bị em trai là Lê Long Đĩnh sát hại, ông ôm Trung Tông khóc, Long Đĩnh cho rằng ông là tôi trung, bèn cho giữ chức quan Cận vệ. Đến năm 1009, Long Đĩnh qua đời, con trai còn nhỏ, ông được lực lượng của Đào Cam Mộc và sư Vạn Hạnh tôn làm Hoàng đế.
- Đóng góp:
Dưới triều đại của mình, ông dành nhiều thời gian để đánh dẹp các nơi phản loạn, vì cơ bản nước Đại Cồ Việt vẫn chưa thu phục được lòng tin của các tộc người vùng biên cương. Triều đình trung ương dần được củng cố, các thế lực phiến quân bị đánh dẹp, kinh đô được dời từ Hoa Lư về thànhĐại La vào tháng 7 năm 1010, và thành này được đổi tên thành Thăng Long, mở đầu cho sự phát triển lâu dài của nhà Lý tồn tại hơn 200 năm.

Trần Cảnh - Trần Thái Tông (Mậu Dần 1218-Đinh Sửu 1277)
Trần Thái Tông (chữ Hán: 陳太宗; tên thật là Trần Cảnh 陳煚; sinh ngày 16 tháng 6, vua mở nghiệp nhà Trần, Thiền gia, miếu hiệu Thái Tông. Quê làng Tức Mặc, phủ Thiên Trường, huyện Mĩ Lộc, tỉnh Nam Định, ông là con của ông Trần Thừa và bà Lê Thị Phong.
Ông ở ngôi hơn 32 năm (1225-1258), làm Thái Thượng Hoàng 19 năm. Ông được vợ là Lý Chiêu Hoàng, nữ hoàng đầu tiên và là nhà vua cuối cùng của nhà Lý nhường ngôi.
Triều đại ông việc chính trị, văn hóa, tôn giáo đều cực thịnh. Chính ông cũng chuyên tâm nghiên cứu Phật học và sùnh mộ Đạo Phật nhưng không xem thường cái học của các trường phái khác. Học thuật nước nhà do đó phát triển. Năm Đinh Tị 1257 ông đã đánh thắng quân Nguyên Mông xâm lược để lại tiếng vang trong lịch sử dân tộc. Đất nước hòa bình, nhân dân an cư, lạc nghiệp phần nào giúp ông thư thái trong tâm hồn. Do đó ông có đủ thời giờ lo tu niệm, trước tác nhiều kinh thánh về Phật giáo.
Ngày 14-1 năm Đinh Sửu (4-5-1277) ông mất, hưởng dương 59 tuổi, làm vua được 33 năm.
Các tác phẩm chính của ông:
Khóa hư lục
Thiền tông chỉ nam tự
Kiến trung thường lệ
Quốc triều thông chế
Trần Thái Tông ngự tập
Trần Thái Tông (1218 – 1277) là vị vua đầu tiên của nhà Trần trong lịch sử Việt Nam. Ông ở ngôi hơn 32 năm (1225 - 1258), làm Thái thượng hoàng 19 năm.
Vua còn trẻ đã lập quốc, được Thái sư Trần Thủ Độ giúp sức cai quản, đất nước thêm yên ổn. Khi trưởng thành, tự có thể cai quản tốt mà không phụ thuộc quá nhiều vào Thái sư. Tuy vậy chuyện gia đình, phòng the lại có nhiều điều hổ thẹn, gây nên nhiều điều tiếng cho thế hệ sau.
Thân thế
Ông nguyên tên thật là Trần Bồ 陳蒲, sau đổi thành Trần Cảnh 陳煚, là con thứ của Trần Thừa, sinh ngày 16 tháng 6 năm Mậu Dần, niên hiệu Kiến Gia thứ 8 triều Lý (tức 10 tháng 7 năm 1218). Ông được chép là mũi cao, mặt rộng, giống như Hán Cao Tổ. Khi mới 8 tuổi, làm Chi hậu chính chi ứng cục triều Lý.
Lên ngôi Hoàng đế Đại Việt
Khi ông sinh ra, họ Trần đã nắm quyền thao túng triều chính nhà Lý. Vì có chú họ là Trần Thủ Độ làm Điện Tiền Chỉ Huy Sứ, nên ông được vào hầu trong cung. Lý Chiêu Hoàng, nữ hoàng nhỏ tuổi của nhà Lý thấy ông thì rất ưa.
Do sự sắp đặt của người chú họ là Trần Thủ Độ - quyền thần đương thời - ông lấy nữ hoàng đầu tiên và là vua cuối cùng của nhà Lý là Lý Chiêu Hoàng khi mới lên 7 tuổi.
Khi đó Trần Thủ Độ là Điện tiền chỉ huy sứ trong triều Lý. Cha của Trần Cảnh là Trần Thừa, cũng là một viên quan của triều Lý như Trần Thủ Độ (từng làm Nội thị khán thủ, một chức quan đứng đầu các quan hầu cận của vua nhà Lý).
Cuối năm 1225, Trần Thủ Độ ép nữ hoàng nhà Lý mới lên 7 tuổi nhường ngôi cho ông. Ông trở thành Hoàng đế Đại Việt, lập ra triều đại nhà Trần. Trần Thừa trở thành Thái thượng hoàng, cùng Trần Thủ Độ chấp chính giúp vua trị nước.
Cai trị
Sự chấp chính của Thái sư Trần Thủ Độ
Bài chi tiết: Trần Thủ Độ
Trần Thủ Độ, sau khi Thái thượng hoàng Trần Thừa mất, trở thành người nhiếp chính cho Thái Tông đến khi ông trưởng thành. Thủ Độ được chép là tuy không có học vấn, nhưng tài lược hơn người, làm quan triều Lý được mọi người suy tôn. Thái Tông lấy được lấy được thiên hạ đều nhờ mưu sức của ông cả. Vì thế ông được nhà nước dựa cậy, quyền át cả vua.
Tuy vậy, Thái sư cho đến khi Thái Tông trưởng thành, tự mình cai quản đất nước đều không tâm niệm cướp ngôi, mà trở thành cánh tay đắc lực nhất của Thái Tông.
Bất ổn trong gia đình
Chiêu Thánh hoàng hậu có thai sinh ra một hoàng nam vào năm 1233, đặt tên là Trịnh, nhưng không may lại chết yểu. Hoàng hậu từ đó không sinh nở nữa.
Thái sư Trần Thủ Độ bèn bàn với Thiên Cực công chúa, lập một người khác để có con nối dõi. Năm 1237, phế Chiêu Thánh xuống làm Công chúa và lấy Thuận Thiên phu nhân, vợ của anh trai vua là An Sinh vương Trần Liễu, đương có thai 3 tháng, lập làm Hoàng hậu Thuận Thiên.
Vì thế, Trần Liễu đem quân bản bộ ra sông Cái làm loạn. Điều này làm cho vua Trần Thái Tông khó xử và ông đã bỏ kinh đô lên núi Yên Tử. Trần Thủ Độ phải đích thân lên núi mời, cộng với lời khuyên của sư Phù Vân, ông mới quay lại kinh đô. Hai tuần sau, Trần Liễu thế cô, không đối địch được, mới đi thuyền độc mộc giả làm người đánh cá, đến chỗ vua xin hàng. Trần Thủ Độ định chém Trần Liễu, nhưng vua Trần Thái Tông đã lấy thân mình che đỡ cho Liễu nên Thủ Độ không làm gì được. Sau đó lấy đất Yên Phụ, Yên Dưỡng, Yên Sinh, Yên Hưng, Yên Bang cho Liễu làm ấp thang mộc. Vì tên đất được phong, mà Liễu có tên hiệu là Yên Sinh Vương (An Sinh Vương).
Tuy nhiên, Trần Liễu vẫn ôm hận trong lòng và trước khi mất (1251) có dặn lại con trai là Trần Quốc Tuấn phải tìm cách đoạt lấy ngai vàng (Con không vì cha lấy được thiên hạ, thì cha chết dưới suối vàng cũng không nhắm mắt được). Trần Quốc Tuấn đã nhận lời cha, nhưng sau này ông đã không thực hiện lời trối trăn này.
Vi hành qua nước Tống
Lúc này, Thái Tông đã trưởng thành, tự mình có thể đảm đương việc đất nước. Năm 1241, ông thân hành cầm quân đi đánh các trại Vĩnh An, Vĩnh Bình của nước Tống phía đường bộ, vượt qua châu Khâm, châu Liêm. Vào địa phận nước Tống, tự xưng là Trai Lang, bỏ thuyền lớn ở trong cõi, chỉ đi bằng các thuyền nhỏ Kim Phụng, Nhật Quang, Nguyệt Quang.
Người châu ấy không biết là ai, đều sợ hãi chạy trốn. Đến sau biết là Hoàng đế Đại Việt, mới chăng xích sắt giữa sông để chặn đường thủy. Khi trở về, ông sai nhổ lấy vài chục cái neo đem về, rồi ung dung đi tiếp đường cũ mà không sợ hãi lúng túng.
Triệu Nguyễn Hiền giải nạn cho nước
Bài chi tiết: Nguyễn Hiền
Nguyễn Hiền là trạng nguyên trẻ tuổi nhất trong nền khoa bảng Việt Nam. Ông mồ côi cha từ nhỏ, bà mẹ đã cho ông theo học sư cụ chùa Hà Dương ở làng Dương A. Năm 11 tuổi, Hiền đã nổi tiếng và được mệnh danh là “thần đồng”, đã đỗ trạng nguyên tại khoa thi tháng 2 năm Thiên Ứng Chính Bình thứ 16 (1247) thời vua Trần Thái Tông. Nhưng Thái Tông cho là Hiền còn quá nhỏ, cần về quê để học thêm.
Tương truyền sứ thần Trung Hoa đem một bài thơ ngụ ngôn sang thử nhân tài nước Nam. Bài thơ như sau:
“Lưỡng nhật bình đầu nhật,
Tứ sơn điên đảo sơn,
Lưỡng vương tranh nhất quốc,
Tứ khẩu tung hoành gian."
Dịch là:
"Hai mặt trời bằng đầu,
Bốn trái núi điên đảo,
Hai vua tranh nhau một nước,
Bốn miệng ở trong khoảng dọc ngang."
Vua và các quan trong triều không ai giải nghĩa được là gì. Một viên quan tâu với vua xin mời trạng nguyên Nguyễn Hiền đến để hỏi nghĩa. Các quan đến quê mời gặp lúc Nguyễn Hiền đang nô đùa với chúng bạn, Nguyễn Hiền nói với các quan:
"Trước đây vua nói ta chưa biết lễ, thì nay chính vua cũng không biết lễ. Không ai đi mời trạng nguyên về kinh lại không có lễ nghĩa.
Quan về tâu lại với vua, rồi đem đồ lễ và xe ngựa đến đón, Nguyễn Hiền mới chịu về kinh.
Về đến kinh đô, vua đưa bài thơ của sứ Tàu ra, trạng Hiền liền giải thích như sau:
Câu thứ nhất nghĩa là hai chữ “nhật” đều bằng đầu nhau. Câu thứ hai “Tứ sơn điên đảo sơn” là 4 chữ “sơn”, ngược xuôi cũng đều là chữ “sơn” cả. Câu thứ ba “Lưỡng vương tranh nhất quốc”, nghĩa là chữ “vương”hai vua tranh một nước. Câu thứ tư “Tứ khẩu tung hoành gian”, có nghĩa là 4 chữ “khẩu” ngang dọc cũng đều thành chữ “khẩu” cả. Tóm lại tất cả 4 câu thơ chỉ nói đến chữ “Điền”.
Nguyễn Hiền được giữ vào triều. Vua tuyển ông vào học tiếp Tam giáo chủ khoa, tức đạo Lão, đạo Phật, đạo Khổng và bổ nhiệm làm quan đến chức Thượng thư bộ Công.
Ngày 14 tháng 8 năm Bính Tý (1255), trạng nguyên Nguyễn Hiền lâm bệnh nặng và qua đời, thọ 21 tuổi. Nhà vua thương tiếc truy phong ông là Đại vương thành hoàng và tôn làm thần ở 32 nơi, trong đó có đình Lại Đà ở xã Đông Hội - huyện Đông Anh, Hà Nội ngày nay.
Chống Mông Cổ
Bài chi tiết: Chiến tranh Nguyên Mông-Đại Việt lần 1
Trong khi đó ở phương bắc, Trung Quốc từ lâu đã bị chia cắt. Nhà Tống phải rút xuống phía nam trước sự xâm lấn của nước Kim của người Nữ Chân. Phía tây bị nước Tây Hạ chia cắt. Tới đầu thế kỷ 13, người Mông Cổ ở phía bắc nước Kim thống nhất dưới quyền Thành Cát Tư Hãn, trở nên lớn mạnh. Mông Cổ đánh xuống phía nam, tiêu diệt Tây Hạ (1227) và Kim (1234). Mặc dù đã mở rộng bờ cõi bao la sang phía tây, diệt nhiều nước Tây Á và đánh sang châu Âu, người Mông Cổ tiếp tục tiến xuống phía nam để tiêu diệt Nam Tống.
Năm 1254, quân Mông Cổ đánh chiếm nước Đại Lý (Vân Nam ngày nay), muốn đánh chiếm Đại Việt để tạo thế "gọng kìm" bao vây Nam Tống. Các đoàn ngoại giao của Mông Cổ được phái sang Đại Việt đề nghị mở đường cho quân đội Mông Cổ đi qua để lên đất Tống. Nhưng các vua Trần không những từ chối lại còn cho bắt giam các nhà ngoại giao Mông Cổ. Chiến tranh nổ ra vào năm 1258 khi Uriyangqatai cùng con trai là Aju đem 3 vạn quân Mông Cổ và 1,5 vạn quân Đại Lý tấn công Việt Nam. Quân Mông Cổ mau chóng giành được thắng lợi, chiếm được kinh đô Thăng Long, nhưng rồi cũng mau chóng bị quân Đại Việt đánh bật. Cuộc chiến năm 1258 chỉ diễn ra trong vòng khoảng nửa tháng, cuối tháng 1 năm 1258.
Truyền ngôi và qua đời
Năm 1258, ông truyền ngôi cho Thái tử Trần Hoảng, lui về làm Thái thượng hoàng, được tôn làm Hiển Nghiêu Thánh Thọ Thái Thượng Hoàng Đế. Trần Hoảng lên ngôi tức Trần Thánh Tông. Lệ Thái thượng hoàng của nhà Trần từ đây thành truyền thống, thứ nhất tránh việc tranh giành ngôi báu giữa các con do đã sớm được định đoạt, thứ nữa là rèn luyện cho vị vua mới cai trị đất nước càng sớm càng tốt.
Ở ngôi Thái thượng hoàng 19 năm, ngày mồng 1 tháng 4 năm Đinh Sửu (tức 5 tháng 5 năm 127...

Chế độ Thái Thượng Hoàng thời Trần là:
-Chế độ Thái thượng hoàng là sau khi thái tử đã đủ khả năng để lãnh đạo vương quốc thì vua cha truyền ngôi cho thái tử giống như để tập sự ấy, và vua cha trở thành Thái thượng hoàng để giúp đỡ, hướng dẫn vua mới nếu cần thiết.
Tác dụng là: không để có sự thay đổi đột ngột trong triều chính và từ đó đất nước vẫn ổn định, dân chúng vẫn yên ổn làm ăn.
-Tiểu sử về Lý Công Uẩn: còn gọi là Lý Thái Tổ (1010 – 1028) Lý Công Uẩn người làng Cổ Pháp (Từ Sơn, Bắc Ninh), thông minh và có chí khí khác người ngay từ nhỏ, sau này trở thành vua dời kinh đô từ Hoa Lư về Đại La đổi tên thành Thăng Long.
-Trần Thủ Độ: (1194 - 1264)là một nhà chính trị Đại Việt, sống vào thời cuối triều Lý đầu triều Trần trong lịch sử Việt Nam. Ông đóng vai trò quan trọng trong các sự kiện lật đổ nhà Lý, lập nên nhà Trần, thu phục các thế lực người Man làm phản loạn và trong cuộc chiến kháng quân Nguyên lần thứ nhất.
-Hồ Qúy Ly:là vị hoàng đế đầu tiên của nhà nước Đại Ngu trong lịch sử Việt Nam. Ông ở ngôi vị Hoàng đế từ năm 1400 đến năm 1401, sau đó giữ ngôi Thái thượng hoàng từ năm 1401 đến năm 1407.
-Trần Cảnh: còn gọi là Trần Thái Tông ( 1218-1277), là vị hoàng đế đầu tiên của hoàng triều Trần nước Đại Việt. Ông ở ngôi từ năm 1225 tới năm 1258, sau đó làm Thái thượng hoàng cho đến khi qua đời.
Hơi dài dòng nhưng mình đã cố tóm tắt lại rồi, mong bạn thông cảm- chúc bạn học tốt nha...

Vào dịp 19 tháng 5 - ngày sinh nhật của Bác Hồ, bố mẹ đã cho tôi đến viếng lăng Bác. Chuyến đi đã giúp tôi có thêm nhiều văn hoá lịch sử và bài học bổ ích. Không chỉ vậy, tôi cũng có những giây phút nhìn lại thời dân ta hồi khi tôi còn chưa thò đầu ra cùng với bố mẹ.
Hôm trước, mẹ đã mua sắm và chuẩn bị đầy đủ các đồ dùng cần thiết cho chuyến đi. Sáng hôm sau, tôi thức dậy vào lúc sáu giờ sáng. Mọi người trong gia đình cùng nhau ăn sáng. Bố gọi xe taxi để chúng tôi đến thăm lăng Bác.
Trên đường đi, tôi ngắm nhìn khung cảnh xung quanh. Khoảng hơn một tiếng là tới thủ đô Hà Nội. Đường phố ở đây thật đông đúc, tấp nập. Hai bên đường là những cửa hàng thật rạng rỡ, đẹp đẽ. Đầu tiên, tôi sẽ được đến viếng lăng Bác. Đến nơi, em cảm thấy rất háo hức. Xung quanh lăng Bác, rất nhiều chú bộ đội mặc quân phục màu trắng đang đứng gác trông rất oai phong, mãnh liệt, sẵn sàng đương đầu với tử thần để bảo vệ bác hồ.
Rất nhiều người đang đứng xếp hàng để vào trong lắng. Tôi và bố mẹ cũng xếp vào dòng người đó. Khoảng mười lăm phút, tôi đã được vào trong lăng. Bên trong khá lạnh. Khi nhìn thấy Bác nằm đó, em vô cùng xúc động đến chảy nước mắt. Thật khó để diễn tả cảm xúc trong tôi lúc này. Khuôn mặt Bác thật hiền từ, rất giống với trong bức ảnh được treo trong lớp học. Chòm râu dài, mái tóc bạc phơ. Vầng trán cao và rộng. Bác nằm đó giống như chỉ đang ngủ không bao giờ thức dậy vậy.
Ra ngoài lăng Bác, tôi được đến thăm nhà sàn - nơi Bác từng sống và làm việc và bảo tàng Hồ Chí Minh - nơi trưng bày những hiện vật, tư liệu về cuộc đời của Bác. Tại đây, tôi được nghe chị hướng dẫn viên kể nhiều câu chuyện về Bác. Giọng kể của chị hướng dẫn viên khiến câu chuyện càng thêm xúc động hơn. Nghe xong, tôi càng thêm cảm phục và yêu mến Bác Hồ. Tôi và bố mẹ đã chụp nhiều bức ảnh kỉ niệm ở lăng Bác.
Sau chuyến đi này, tôi đã cảm thấy Bác Hồ - 1 vị lãnh tụ vĩ đại trong lịch sử nhà ta.

Thánh địa Mỹ Sơn thuộc xã Duy Phú, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam, cách thành phố Đà Nẵng khoảng 69 km và gần thành cổ Trà Kiệu, bao gồm nhiều đền đài Chăm Pa, trong một thung lũng đường kính khoảng 2 km, bao quanh bởi đồi núi. Đây từng là nơi tổ chức cúng tế của vương triều Chăm Pa cũng như là lăng mộ của các vị vua Chăm Pa hay hoàng thân, quốc thích. Thánh địa Mỹ Sơn được coi là một trong những trung tâm đền đài chính của Ấn Độ giáo ở khu vực Đông Nam Á và là di sản duy nhất của thể loại này tại Việt Nam.
Thông thường người ta hay so sánh Thánh địa này với các tổ hợp đền đài chính khác ở Đông Nam Á như Borobudur (Java, Indonesia), Pagan(Myanma), Angkor Wat (Campuchia) và Ayutthaya (Thái Lan). Từ năm1999, Thánh địa Mỹ Sơn đã được UNESCO chọn là một trong các di sản thế giới tân thời và hiện đại tại phiên họp thứ 23 của Ủy ban di sản thế giới theo tiêu chuẩn C (II) như là một ví dụ điển hình về trao đổi văn hoá và theo tiêu chuẩn C (III) như là bằng chứng duy nhất của nền văn minh châu Á đã biến mất. Hiện nay, nơi đây đã được thủ tướng chính phủ Việt Nam đưa vào danh sách xếp hạng 23 di tích quốc gia đặc biệt quan trọng.
Bao gồm. Tên chỗ đó. Ở đâu. Đẹp hoặc cổ kính thế nào. Được công nhận là di sản thế giới không. Lịch sử đó có được nhà nước xếp hạng không ?

Câu 1: Tố Hữu
`-` Tên khai sinh : Nguyễn Kim Thành (1920 - 2002)
`-` Quê : Thừa Thiên `-` Huế
`-` Ông được coi là lá cờ đầu của thơ ca cách mạng Việt Nam
`-` Đời cách mạng thống nhất với đời thơ
`-` Phong cách thơ : chất trữ tình, chính trị sâu sắc.
* Các tác phẩm chính :
`-` Từ ấy (tác phẩm và lời hình )
`-` Việt Bắc
2,
`-` Hoàn cảnh ra đời : Tháng 7/1939 , khi tác giả bị thực dân Pháp bắt giam trong nhà lao thừa phủ ( Huế )
`-` Xuất xứ :
`+` In trong tập thơ "Từ ấy" (phần 2)
`-` Thể thơ : lục bát
`-` Bố cục :
`+` Phần 1 : 6 câu thơ đầu : cảnh đất trời vào hè
`+` Phần 2 : 4 câu thơ cuối : tâm trạng người tù.
Câu 3 :
Nhan đề : KHI CON TU HÚ
`-` Độc đáo, gợi nhiều liên tưởng
`+` Về cấu trúc : chỉ là vế phụ của một câu trọn ý (trạng ngữ)
`+` Về ý nghĩa :
`*` Nhan đề mở, gợi mạch cảm toàn bài
`*` Tạo sự tò mò của độc giả
`-` "Khi con tu hú" là bài thơ nói lên cảnh bí bách ngột ngạt khi bị giam cầm của nhà thơ Tố Hữu.
Câu 4 : Các chi tiết cho thấy tín hiệu của bức tranh mùa hè trong 6 câu thơ đầu :
`-` Hình ảnh :lúa chiêm, trái cây, vườn râm, bắp rây, diều sáo.
`->` Tiêu biểu, sống động của mùa hè.
`-` Âm thanh : chim tu hú, tiếng ve, diều sáo
`->` vui tươi, tưng bừng, rộn ràng.
`-` Màu sắc : vàng, màu hồng, màu xanh
`->` Rực rỡ, hài hòa
`-` Hương vị : thơm (lúa bắp), ngọt (trái cây)
`->` Ngọt ngào.
`-` Không gian : diều sáo lộn nhào
`->` khoáng đạt, tự do
tiểu sử là gì nhỉ
Tiểu sử là thân thế và sự nghiệp của một người , trình bày một cách tóm tắt .
Tớ đã giải ra nghĩa của từ " tiểu sử " rồi .