K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

ĐỀ 6“Ở các nước Âu – Mỹ, lấy ví dụ ở Pháp hiện nay, trung bình một người dân Pháp đọc tới 20 cuốn sách/năm, đối với người dân sống ở thành phố, tầng lớp tri thức, con số đó lên tới 30-50 cuốn/năm (Nguyễn Hương, bài “Người Việt ít đọc sách: Cần những chính sách để thay đổi toàn diện”). Ở Nhật, như đã nói ở trên, ngay từ thời Cải cách Minh Trị, chỉ với 30 triệu...
Đọc tiếp

ĐỀ 6

“Ở các nước Âu – Mỹ, lấy ví dụ ở Pháp hiện nay, trung bình một người dân Pháp đọc tới 20 cuốn sách/năm, đối với người dân sống ở thành phố, tầng lớp tri thức, con số đó lên tới 30-50 cuốn/năm (Nguyễn Hương, bài “Người Việt ít đọc sách: Cần những chính sách để thay đổi toàn diện”). Ở Nhật, như đã nói ở trên, ngay từ thời Cải cách Minh Trị, chỉ với 30 triệu dân mà tiêu thụ tới hàng trăm ngàn cuốn sách dạng tinh hoa, “khó nhằn”. Ở một quốc gia gần hơn trong cộng đồng ASEAN, đó là Malaysia, số lượng sách được đọc trên đầu người là 10-20 cuốn/người/năm (2012, số liệu từ ông Trần Trọng Thành, công ty sách điện tử Aleeza). Và ở Việt Nam, theo con số do Bộ Văn hóa – Thể thao và Du lịch công bố ngày 12/04/2013 ngay trước thềm sự kiện “Ngày hội Sách và Văn hóa Đọc”, số lượng sách một người Việt đọc trong một năm là… 0,8 cuốn, nghĩa là người Việt Nam đọc chưa đầy một cuốn sách trong một năm.

Có sự tương quan rõ ràng giữa văn hóa đọc và sự phát triển của một quốc gia. Với những con số ở trên, dễ hiểu vì sao nước Pháp lại có một nền kinh tế, văn hóa và nghệ thuật rạng rỡ như vậy. Và nước Nhật có thể đứng dậy thần kỳ sau Thế chiến 2 cũng như vươn lên quật khởi sau bao thiên tai liên miên, hiện đang là nền kinh tế đứng thứ hai thế giới với nền khoa học-công nghệ tiên tiến bậc nhất. Malaysia đang là ngôi sao mới ở khu vực ASEAN với những chính sách đổi mới và mở cửa đột phá gần đây. Và người Do Thái với câu chuyện ở đầu bài, một dân tộc 13 triệu dân nhưng sinh ra gần 40% chủ nhân của các giải Nobel; 1/3 trên tống số các nhà triệu phú đang sống và làm việc tại Mỹ là người Do Thái; 20% giáo sư tại các trường đại học hàng đầu hiện nay; 3 nhân vật sau Công nguyên cho đến hiện tại có tác động lớn nhất đến lịch sử nhân loại là Chúa Jesus, Karl Marx và Alber Einstein…là người Do Thái.

Mỗi người Việt chưa đọc nổi một cuốn sách/năm, ai có thể khẳng định không liên quan đến tình trạng suy thoái toàn diện từ kinh tế, giáo dục, văn hóa, xã hội cũng như nhân cách con người hiện nay ở Việt Nam?

(Ngẫm về “tủ rượu” của người Việt và “tủ sách” của người Do Thái - Báo mới)

Câu 1. Đoạn trích trên có thể xếp vào thể loại nào?

Câu 2. Phương thức biểu đạt chính của đoạn trích trên là gì ?

Câu 3. Đoạn trích trên có mấy đoạn văn?

Câu 4. Các từ sau thuộc loại từ nào : tri thức, quật khởi, thiên tai, chủ nhân, suy thoái, nhân cách

Câu 5. Đáp án nào sau đây nêu lên chính xác nghĩa của từ thần kì” trong đoạn trích trên?

Câu 6. Tác dụng của trạng ngữ trong câu “Ở Nhật, như đã nói ở trên, ngay từ thời Cải cách Minh Trị, chỉ với 30 triệu dân mà tiêu thụ tới hàng trăm ngàn cuốn sách dạng tinh hoa, “khó nhằn”” là gì?
Câu 7. Theo em, vấn đề mà tác giả muốn bàn luận qua đoạn trích trên là gì?
Câu 8. Em hãy cho biết nội dung chính của đoạn trích trên là gì?

Câu 9. Em hãy nêu lên ba tác dụng của việc đọc sách đối với bản thân.

Câu 10. Em hãy nêu thể loại sách mà em thích đọc nhất? Vì sao em thích đọc thể loại đó.

Câu 11.Thuyết minh về một lễ hội mà em biết.

1
DH
Đỗ Hoàn
CTVHS VIP
3 tháng 5

Câu 1. Đoạn trích trên có thể xếp vào thể loại nghị luận xã hội.

Câu 2. Phương thức biểu đạt chính của đoạn trích trên là nghị luận.

Câu 3. Đoạn trích trên có ba đoạn văn.

Câu 4. Các từ sau thuộc loại từ danh từ:

Câu 5. thiếu đáp án

Câu 6. Tác dụng của trạng ngữ trong câu “Ở Nhật, như đã nói ở trên, ngay từ thời Cải cách Minh Trị, chỉ với 30 triệu dân mà tiêu thụ tới hàng trăm ngàn cuốn sách dạng tinh hoa, “khó nhằn”” là: Các trạng ngữ này giúp cung cấp thông tin chi tiết về thời gian, địa điểm, bối cảnh, làm rõ hơn về văn hóa đọc ở Nhật Bản và tăng tính thuyết phục cho lập luận của tác giả.

Câu 7. Theo em, vấn đề mà tác giả muốn bàn luận qua đoạn trích trên là tình trạng đọc sách ít ỏi của người Việt Nam so với các quốc gia phát triển và mối tương quan giữa văn hóa đọc với sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội và nhân cách con người. Tác giả bày tỏ sự lo lắng về thực trạng này và ngầm đặt ra câu hỏi về những hệ lụy mà nó có thể gây ra cho sự phát triển toàn diện của Việt Nam.

Câu 8. Nội dung chính của đoạn trích trên là so sánh số lượng sách đọc trung bình của người Việt Nam với người dân ở các nước Âu - Mỹ, Nhật Bản, Malaysia và người Do Thái, từ đó nhấn mạnh sự khác biệt lớn và gợi ra mối liên hệ giữa văn hóa đọc thấp kém với tình trạng suy thoái trên nhiều lĩnh vực của Việt Nam.

Câu 9. Ba tác dụng của việc đọc sách đối với bản thân em:

+ Mở rộng kiến thức và hiểu biết:

+ Phát triển tư duy và khả năng ngôn ngữ:

+ Bồi dưỡng tâm hồn và cảm xúc:

Câu 10. Thể loại sách mà em thích đọc nhất là văn học, đặc biệt là tiểu thuyết. Em thích đọc tiểu thuyết vì:

- Tính hấp dẫn của cốt truyện: Những câu chuyện hư cấu thường có những tình tiết lôi cuốn, bất ngờ, khơi gợi sự tò mò và hứng thú của em khi theo dõi diễn biến của nhân vật và sự kiện.

- Khám phá thế giới nội tâm nhân vật: Tiểu thuyết cho phép em đi sâu vào thế giới cảm xúc, suy nghĩ của các nhân vật, giúp em hiểu rõ hơn về những khía cạnh khác nhau của con người và những mối quan hệ xã hội phức tạp.

- Tính sáng tạo và giàu ý nghĩa: Các tác phẩm văn học thường chứa đựng những thông điệp sâu sắc về cuộc sống, về những giá trị nhân văn, khơi gợi những suy ngẫm và cảm xúc trong em sau khi đọc. Ngoài ra, cách sử dụng ngôn ngữ độc đáo và giàu hình ảnh của các nhà văn cũng là điều em yêu thích.

Câu 11. Thuyết minh về Lễ hội Nghinh Ông ở Cần Giờ

Lễ hội Nghinh Ông là một trong những lễ hội truyền thống lớn nhất và đặc sắc nhất của ngư dân vùng biển Cần Giờ, Thành phố Hồ Chí Minh. Lễ hội thường được tổ chức vào khoảng giữa tháng Tám Âm lịch hàng năm, kéo dài từ hai đến ba ngày với nhiều hoạt động văn hóa, tín ngưỡng phong phú, thể hiện lòng biết ơn của người dân đối với Thần Cá Ông (Cá Voi) - vị thần bảo hộ của biển cả, cầu mong mưa thuận gió hòa, tôm cá đầy khoang.

Lễ hội Nghinh Ông có nguồn gốc từ tục thờ cúng cá voi của ngư dân ven biển Nam Bộ. Họ tin rằng cá voi là loài vật linh thiêng, thường cứu giúp tàu thuyền gặp nạn trên biển. Khi cá voi chết dạt vào bờ, người dân sẽ tổ chức chôn cất long trọng và thờ cúng như một vị thần. Lâu dần, tục lệ này phát triển thành lễ hội Nghinh Ông, mang đậm dấu ấn văn hóa biển của vùng đất Cần Giờ.

Phần lễ chính của lễ hội bao gồm nhiều nghi thức trang trọng. Đoàn nghinh Ông sẽ di chuyển bằng thuyền rồng được trang hoàng lộng lẫy ra biển để nghinh rước linh vị Ông về lăng. Đi đầu đoàn là các thuyền chở cờ phướn, lân sư rồng, đội nhạc lễ. Khi đoàn thuyền trở về, các nghi thức cúng tế, dâng hương được cử hành tại lăng Ông với sự tham gia đông đảo của người dân và du khách.

Bên cạnh phần lễ trang nghiêm, lễ hội Nghinh Ông còn có nhiều hoạt động văn hóa, thể thao sôi nổi, thu hút đông đảo người tham gia. Các trò chơi dân gian như kéo co, đẩy gậy, đua thuyền, hát bội, múa lân sư rồng được tổ chức, tạo không khí vui tươi, náo nhiệt. Đặc biệt, các buổi biểu diễn hát bội thường tái hiện những tích tuồng cổ về biển cả và các vị thần, mang đậm giá trị văn hóa truyền thống.

Lễ hội Nghinh Ông ở Cần Giờ không chỉ là một hoạt động tín ngưỡng mà còn là dịp để cộng đồng ngư dân gắn kết, thể hiện tinh thần đoàn kết và lòng tự hào về truyền thống văn hóa của quê hương. Lễ hội cũng là một sản phẩm du lịch văn hóa đặc sắc, thu hút du khách thập phương đến khám phá và trải nghiệm những nét độc đáo của vùng biển Cần Giờ. Với những giá trị văn hóa và lịch sử to lớn, Lễ hội Nghinh Ông đã trở thành một phần không thể thiếu trong đời sống tinh thần của người dân Cần Giờ và góp phần làm phong phú thêm bức tranh văn hóa đa dạng của Thành phố Hồ Chí Minh.


31 tháng 7 2023

Tham khảo!

- Ảnh hưởng thuận lợi:

+ Vị trí địa lý đã tạo điều kiện thuận lợi cho Cộng hoà Nam Phi giao lưu, phát triển với các nước trong khu vực. Đường bờ biển kéo dài thuận lợi cho việc xây dựng các cảng biển và hoạt động kinh tế biển.

+ Điều kiện tự nhiên thuận lợi cho Cộng hoà Nam Phi phát triển các ngành kinh tế nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ.

+ Dân cư đông tạo ra nguồn lao động dồi dào, thị trường tiêu thụ lớn.

- Khó khăn:

+ Việc gia tăng số lượng lao động không tương ứng với tăng trưởng kinh tế dẫn đến tình trạng thất nghiệp ở quốc gia này vẫn còn cao. Hiện nay, cộng hòa Nam Phi vẫn đang tồn tại một số vấn đề xã hội cần giải quyết như vấn đề phân biệt chủng tộc, sự chênh lệch giàu nghèo, tỷ lệ thất nghiệp…

+ Sự phân cắt địa hình giữa vùng ven biển và nội địa, gây trở ngại lớn cho việc xây dựng các tuyến đường giao thông kết nối đất nước.

15 tháng 2 2023

Một trong những biểu hiện của sự phát triển ở các quốc gia phong kiến Đông Nam Á là?
A. các quốc gia Đông Nam Á phát triển theo hướng tư bản
✔ B.Nhà nước ở thời kì đỉnh cao của chế độ phong kiến phản quyền 
C. Dựa hoàn toàn vào văn hóa bên ngoài
D. Các dân tộc xây dựng nền văn hóa riêng độc đáo

7 tháng 1 2022

tk:

 

1)Tác động của văn hóa tới mục tiêu và chính sách phát triển kinh tế

Đây có thể là sự tác động của văn hóa tới sự phát triển kinh tế ở tầng vỹ mô (cao nhất), cũng như ở các chủ thể sản xuất kinh doanh. Ở đây các giá trị con người, giá trị xã hội thể hiện ở quyền, nghĩa vụ, lợi ích và cuộc sống của con người được xem xét và đặt vào vị trí như thế nào trong trọng tâm của các mục tiêu và chính sách phát triển kinh tế, vào việc hình thành các mục tiêu đó trong thể chế - cơ chế phát triển kinh tế. Điều này được thể hiện rất rõ trong tư duy và chính sách phát triển kinh tế hướng tới như thế nào trong việc thực hiện các giá trị con người và giá trị xã hội. Trên thực tế thường có ba xu hướng sau : Một là, khi nhận thức rõ tầm quan trọng của việc hướng tới thực hiện các gia trị con người và các giá trị xã hội, coi đó vừa là mục tiêu vừa là động lực phát triển (đương nhiên là cần phải phù hợp với điều kiện và trình độ phát triển của từng giai đoạn cụ thể), thì trong mục tiêu, cơ chế và chính sách phát triển kinh tế sẽ có sự kết hợp một cách hữu cơ với phát triển các vấn đề xã hội, mà trọng tâm là các giá trị con người, giá trị văn hóa. Hai là, xu hướng coi nhẹ các các mục tiêu giá trị con người, giá trị văn hóa, đặt các mục tiêu kinh tế (phát triển công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ…) tách biệt với các mục tiêu phát triển xã hội, đặt cao các mục tiêu phát triển kinh tế như là những mục đích tối thượng – tự thân. Xu hướng này kéo dài sẽ dẫn đến mâu thuẫn gay gắt giữa các vấn đề kinh tế và các vấn đề xã hội, làm giảm động lực nhân tố con người trong phát triển. Về điều này có thể liên hệ qua một ví dụ nhỏ : Việc quy hoạch và phát triển tràn lan các nhà máy thủy điện nhỏ ở nhiều nơi (vì mục tiêu tăng sản lượng điện), nhưng không tính tới và đảm bảo đầy đủ về lợi ích của người dân trong vùng liên quan, về môi trường sinh thái, về rừng …, gây ra những hệ quả nghiêm trọng, đã phải rà soát lại và bỏ ra khỏi quy hoạch hàng trăm công trình. Điều này còn thấy thể hiện ở những chính sách đầu tư ở tầm cao hơn. Ba là, xu hướng coi trọng việc đặt và thực hiện các mục tiêu xã hội cao hơn điều kiện và trình độ thực tế của nền kinh tế, thể hiện ở chế độ bao cấp cao và mang tính bình quân cho việc thực hiện các mục tiêu xã hội. Điều này, nhìn bề ngoài được thể hiện như là một tính ưu việt của xã hội; tuy nhiên nếu kéo dài có thể sẽ dẫn đến hai hệ quả : nguồn lực kinh tế của đất nước không đủ sức chịu đựng cho sự bao cấp như vậy, đầu tư cho phát triển sẽ giảm dần. Đồng thời, trong xã hội có thể sẽ hình thành “giá trị con người – giá trị xã hội” quen hưởng thụ được bao cấp cao hơn năng lực và cống hiến của mình, chính điều này cũng sẽ làm yếu đi động lực con người trong sự phát triển. Có thể nêu lên đây hai ví dụ cho xu hướng này: Ở Việt nam, chính sách xóa đói giảm nghèo rất ưu việt, song một số nơi thực hiện sự bao cấp bình quân cao và không có điều kiện kèm theo, vì vậy dẫn đến hiện tượng nhiều hộ, nhiều địa phương “không muốn thoát nghèo”. Còn ở Châu Âu, cuộc khủng hoảng nghiêm trọng về nợ công và thâm hụt ngân sách ở nhiều nước, có nhiều nguyên nhân, song trong đó có một nguyên nhân là các nước đó đã thực hiện các chính sách xã hội cao hơn so với nguồn lực thực tế, điều kiện và khả năng phát triển kinh tế của mình.

Như vậy, việc nhận thức cho đúng các mục tiêu về giá trị văn hóa, giá trị xã hội trong mỗi giai đoạn và việc đặt các mục tiêu đó gắn hữu cơ – biện chứng với mục tiêu, chiến lược, quy hoạch, cơ chế và chính sách phát triển kinh tế có một tầm quan trọng đặc biệt.              

      2)Tác động của văn hóa trong sản xuất kinh doanh:

Như trên đã trình bày, khi văn hóa phát triển xác lập được thành những thể chế, thiết chế mới, những giá trị con người, giá trị văn hóa, giá trị xã hội mới sẽ tác động trở lại đối với sự phát triển kinh tế và các lĩnh vực khác. Sự tác động này có thể mang tính thuận chiều hoặc ngược chiều : Khi những giá trị con người – giá trị văn hóa phù hợp với quy luật và cơ chế phát triển kinh tế khách quan sẽ có sự tác động cùng chiều và tạo nên động lực mạnh cho sự phát triển cả về kinh tế và xã hội. Ngược lại, khi các giá trị con người - giá trị văn hóa không phù hợp với quy luật và cơ chế phát triển kinh tế sẽ có tác động ngược chiều, làm suy yếu động lực phát triển cả về kinh tế và xã hội, thậm chí có thể còn dẫn tới những rối loạn xã hội. Có thể thấy điều này ở trong cơ chế HTX – Tập thể hóa trước đây, hình thành các giá trị con người và giá trị văn hóa của cơ chế đó, về bản chất là không phù hợp với quy luật kinh tế khách quan, đã đi đến mất động lực phát triển, làm cho nền nông nghiệp rơi vào khủng hoảng nghiêm trọng trong những năm 1970 – 1980, phải đi đến giải thể. Khi chuyển sang xác định “Hộ nông dân là đợn vị kinh tế tự chủ” với các giá trị mới về vị thế của kinh tế hộ nông dân, về quyền của người nông dân như quyền làm chủ ruộng đất, tư liệu sản xuất và sản xuất kinh doanh…, và trên cơ sở phát triển kinh tế hộ nông dân để hình thành các hợp tác xã kiểu mới, phù hợp với bản chất của nền kinh tế nông nghiệp, đã tạo nên động lực mạnh mẽ - chủ yếu cho phát triển nông nghiệp, tạo nên những  “kỳ tích” của nền nông nghiệp trong những thập kỷ qua (nhưng giờ đây lại đang đặt ra những vấn đề mới trong phát triển nông nghiệp) .

Trong quá trình phát triển kinh tế thị trường, công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, vai trò của văn hóa kinh doanh, văn hóa quản trị doanh nghiệp đóng vai trò rất quan trọng đối với phát triển kinh tế. Ở đây sẽ diễn ra sự tương tác giữa các giá trị văn hóa và các giá trị kinh tế phước tạp và mang tính hai mặt. Một mặt, các mô hình quản trị kinh doanh mới, các hình thức tổ chức và phương pháp quản trị doanh nghiệp tiến tiến cùng với nguồn nhân lực chất lượng cao hơn từ các nước có nền công nghiệp tiên tiến hơn được đưa vào Việt nam với các các giá trị văn hóa kinh doanh mới (thông qua các doanh nghiệp FDI, doanh nghiệp liên doanh liên kết, qua các hợp đồng hợp tác kinh doanh, qua đào tạo nhân lực…). Đây là những giá trị văn hóa kinh doanh tiên tiến (như coi trọng xây dựng chiến lược phát triển dài hạn, xây dựng thương hiệu, chất lượng, hiệu quả, đổi mới công nghệ, trọng dụng nhân tài, văn hóa hội nhập quốc tế…) có tác dụng quan trọng đối với việc đổi mới và xây dựng nền quản trị kinh doanh của Việt Nam từng bước tiếp cận với chuẩn mực quốc tế. Nhưng đồng thời, khi khung khổ pháp lý của nước ta chưa đồng bộ, kém hiệu lực – hiệu quả, thì cũng bị các đối tác nước ngoài “đưa vào” những giá trị văn hóa kinh doanh tiêu cực như hiện tượng “chuyển giá” rất nghiêm trọng ở những doanh nghiệp FDI mà báo chí đã nêu, hay cách bắt lao động làm quá sức lại trả lương rất thấp ở không ít doanh nghiệp…Đồng thời, trong quá trình này không ít các giá trị văn hóa kinh doanh mang tính “chộp giật”, lừa đảo, cò con, thiếu trách nhiệm giải trình, trách nhiệm xã hội…của một nền sản xuất nhỏ còn đang tồn đọng đã có tác động tiêu cực lớn đến kết quả và hiệu quả sản xuất kinh doanh, đến xây dựng nền văn hóa kinh doanh mới đáp ứng với yêu cầu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế..    

  Phát triển văn hóa và con người trong bối cảnh từ một đất nước với nền sản xuất nông nghiệp tiểu nông, thủ công là chủ yếu, còn mang nặng dấu ấn của tồn đọng của xã hội phong kiến thực dân, từ một xã hội nhiều năm có chiến tranh sang xã hội hòa bình; chuyển đổi thể chế phát triển kinh tế - xã hội từ tập trung quan liêu bao cấp sang phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN; từ khép kín, đóng cửa sang hội nhập quốc tế toàn diện; từ mô hình phát triển chủ yếu theo chiều rộng sang mô hình phát triển theo chiều sâu… đang đứng trước rất nhiều cơ hội và thách thức. Trong đó nổi lên một trong những vấn đề trung tâm là hình thành và phát triển hệ giá trị xã hội, hệ giá trị con người như thế nào để tạo động lực cho sự phát triển kinh tế và xã hội. Trên thực tế đang tồn tại những nhận thức, quan niệm và thực tiễn rất khác nhau (được thể hiện ngay trong các cách đánh giá “tốt, xấu”, “tích cực, tiêu cực”, “chính đáng, không chính đáng”…). Có thể nêu lên một số thực trạng để thấy rõ hơn bản chất của vấn đề : Thứ nhất, đó là tệ nạn tham nhũng. Đảng, Nhà nước và toàn hệ thống chính trị đã nhận rõ mối nguy hại của tệ nạn này (coi là quốc nạn, giặc nội xâm), đã tổ chức những “binh chủng” hùng mạnh, đã ban hành nhiều cơ chế chính sách và giải pháp, nhưng kết quả và hiệu quả vẫn rất hạn chế, tệ nạn này vẫn đang rất nghiêm trọng và tạo ra những “giá trị văn hóa, giá trị con người, giá trị xã hội” tiêu cực , đang làm sói mòn lòng tin của nhân dân (mà lòng tin là một trong những giá trị cao nhất của văn hóa). Trên diễn đàn Quốc Hội kỳ họp này đã gióng lên những lời cảnh tỉnh : “nợ xấu lòng tin” và “tồn đọng trách nhiệm”; “liên minh ma quỷ đó khiến ngân khố quốc gia ngày càng bị bòn rút”; “xuất hiện tình trạng lãnh đạo các địa phương vận động các đại biểu Quốc Hội trước mỗi kỳ họp không chất vấn hay nói về tham nhũng”; “giờ đây đang có một thực trạng đáng lo ngại, đó là việc người dân đang vô cảm với công tác phòng chống tham nhũng”. Ở đây không đánh giá về công tác phòng chống tham nhũng, mà xét dưới giác độ văn hóa cho thấy rằng “giá trị xã hội” của tham nhũng đang còn tồn tại rất mạnh trong một lượng xã hội gắn với chức quyền (mà trong văn kiện của Đảng và Nhà nước nhận định là một bộ phận không nhỏ), lại được “bảo trợ” bởi những bất cập, yếu kém, sơ hở của hệ thống thiết chế chưa được hoàn thiện. “Giá trị xã hội” của tham nhũng đang chìa tay ra kết nhân duyên và thẩm thấu vào các lĩnh vực của đời sống xã hội, làm băng hoại những giá trị tốt đẹp của xã hội (khi nói về công tác tuyển dụng và đề bạt cán bộ, công chức, đến Chủ tịch Quốc Hội Nguyễn Sinh Hùng phải thốt lên không tham nhũng lấy gì mà chạy chức, hiện nay tiêu cực, “bôi trơn”, chạy chọt ở khâu nào cũng có; hay như trong điều tra của Thanh tra Chính phủ vừa công bố có đến 70 % doanh nghiệp phải chủ động đưa hối lộ). Nhưng rất tiếc là những thiết chế đặt ra và thực thi chưa đủ mạnh để ng...

28 tháng 12 2021

Gặp đồng loại

Tui ARMY BTS NEK

21 tháng 1 2022

Chiều tác động c̠ủa̠ văn hóa trong kinh tế

Như trên đã trình bày, văn hóa thuộc “tính thứ hai” so với kinh tế, nhưng không phải Ɩà hệ quả thụ động, một chiều; do tính độc lập tương đối ѵà dưới tác động c̠ủa̠ quá trình phát triển kinh tế thị trường, công nghiệp hóa, hiện đại hóa ѵà hội nhập quốc tế, mà sự tác động c̠ủa̠ văn hóa đối với kinh tế sẽ phức tạp ѵà đa chiều.Trong xã hội hiện đại, văn hóa lại càng “thoát ra” mạnh hơn khỏi phạm vi “đời sống tinh thần” thuần túy.Văn hóa xâm nhập, tương tác ѵào tất các các lĩnh vực c̠ủa̠ đời sống xã hội (chính trị, kinh tế, giáo dục, khoa học – công nghệ, đối ngoại ѵà hội nhập quốc tế…), không chỉ Ɩà những giá trị phát triển mà còn trở thành một phần thiết chế phát triển c̠ủa̠ các lĩnh vực đó.Với kinh tế mối quan hệ đó được thể hiện trong 3 dạng chủ yếu:

– Văn hóa Ɩà một yếu tố quan trọng trong xây dựng thể chế, thiết chế phát triển kinh tế, một định hướng cho mục tiêu phát triển kinh tế.

– Văn hóa Ɩà một động lực, công cụ để hỗ trợ – thúc đẩy phát triển kinh tế; ѵà phát triển kinh tế tạo cơ sở nguồn lực ѵà động lực phát triển văn hóa.

– Văn hóa trực tiếp trở thành một lĩnh vực kinh tế (thế giới nói tới “công nghiệp văn hóa”, “sản nghiệp văn hóa”, “kinh tế văn hóa”, “dịch vụ văn hóa”…).

đâʏ Ɩà những vấn đề rấт mới ѵà quan trọng, cần được nghiên cứu thấu đáo cả về lý luận ѵà thực tiễn, nhất Ɩà khi xã hội đi ѵào phát triển kinh tế tri thức ѵà xã hội thông tin.

1)Tác động c̠ủa̠ văn hóa tới mục tiêu ѵà chính sách phát triển kinh tế

đâʏ có thể Ɩà sự tác động c̠ủa̠ văn hóa tới sự phát triển kinh tế ở tầng vỹ mô (cao nhất), cũng như ở các chủ thể sản xuất kinh doanh.Ở đây các giá trị con người, giá trị xã hội thể hiện ở quyền, nghĩa vụ, lợi ích ѵà cuộc sống c̠ủa̠ con người được xem xét ѵà đặt ѵào vị trí như thế nào trong trọng tâm c̠ủa̠ các mục tiêu ѵà chính sách phát triển kinh tế, ѵào việc hình thành các mục tiêu đó trong thể chế – cơ chế phát triển kinh tế.Điều này được thể hiện rấт rõ trong tư duy ѵà chính sách phát triển kinh tế hướng tới như thế nào trong việc thực hiện các giá trị con người ѵà giá trị xã hội.Trên thực tế thường có ba xu hướng sau : Một Ɩà, khi nhận thức rõ tầm quan trọng c̠ủa̠ việc hướng tới thực hiện các gia trị con người ѵà các giá trị xã hội, coi đó vừa Ɩà mục tiêu vừa Ɩà động lực phát triển (đương nhiên Ɩà cần phải phù hợp với điều kiện ѵà trình độ phát triển c̠ủa̠ từng giai đoạn cụ thể), thì trong mục tiêu, cơ chế ѵà chính sách phát triển kinh tế sẽ có sự kết hợp một cách hữu cơ với phát triển các vấn đề xã hội, mà trọng tâm Ɩà các giá trị con người, giá trị văn hóa. Hai Ɩà, xu hướng coi nhẹ các các mục tiêu giá trị con người, giá trị văn hóa, đặt các mục tiêu kinh tế (phát triển công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ…) tách biệt với các mục tiêu phát triển xã hội, đặt cao các mục tiêu phát triển kinh tế như Ɩà những mục đích tối thượng – tự thân.Xu hướng này kéo dài sẽ dẫn đến mâu thuẫn gay gắt giữa các vấn đề kinh tế ѵà các vấn đề xã hội, Ɩàm giảm động lực nhân tố con người trong phát triển.Về điều này có thể liên hệ qua một ví dụ nhỏ : Việc quy hoạch ѵà phát triển tràn lan các nhà máy thủy điện nhỏ ở nhiều nơi (vì mục tiêu tăng sản lượng điện), nhưng không tính tới ѵà đảm bảo đầy đủ về lợi ích c̠ủa̠ người dân trong vùng liên quan, về môi trường sinh thái, về rừng …, gây ra những hệ quả nghiêm trọng, đã phải rà soát lại ѵà bỏ ra khỏi quy hoạch hàng trăm công trình.Điều này còn thấy thể hiện ở những chính sách đầu tư ở tầm cao hơn. Ba Ɩà, xu hướng coi trọng việc đặt ѵà thực hiện các mục tiêu xã hội cao hơn điều kiện ѵà trình độ thực tế c̠ủa̠ nền kinh tế, thể hiện ở chế độ bao cấp cao ѵà mang tính bình quân cho việc thực hiện các mục tiêu xã hội.Điều này, nhìn bề ngoài được thể hiện như Ɩà một tính ưu việt c̠ủa̠ xã hội; tuy nhiên nếu kéo dài có thể sẽ dẫn đến hai hệ quả : nguồn lực kinh tế c̠ủa̠ đất nước không đủ sức chịu đựng cho sự bao cấp như ѵậყ, đầu tư cho phát triển sẽ giảm dần.Đồng thời, trong xã hội có thể sẽ hình thành “giá trị con người – giá trị xã hội” quen hưởng thụ được bao cấp cao hơn năng lực ѵà cống hiến c̠ủa̠ mình, chính điều này cũng sẽ Ɩàm yếu đi động lực con người trong sự phát triển.Có thể nêu lên đây hai ví dụ cho xu hướng này: Ở Việt nam, chính sách xóa đói giảm nghèo rấт ưu việt, song một số nơi thực hiện sự bao cấp bình quân cao ѵà không có điều kiện kèm theo, vì ѵậყ dẫn đến hiện tượng nhiều hộ, nhiều địa phương “không muốn thoát nghèo”.Còn ở Châu Âu, cuộc khủng hoảng nghiêm trọng về nợ công ѵà thâm hụt ngân sách ở nhiều nước, có nhiều nguyên nhân, song trong đó có một nguyên nhân Ɩà các nước đó đã thực hiện các chính sách xã hội cao hơn so với nguồn lực thực tế, điều kiện ѵà khả năng phát triển kinh tế c̠ủa̠ mình.

Như ѵậყ, việc nhận thức cho đúng các mục tiêu về giá trị văn hóa, giá trị xã hội trong mỗi giai đoạn ѵà việc đặt các mục tiêu đó gắn hữu cơ – biện chứng với mục tiêu, chiến lược, quy hoạch, cơ chế ѵà chính sách phát triển kinh tế có một tầm quan trọng đặc biệt.              

2) Tác động c̠ủa̠ văn hóa trong sản xuất kinh doanh:

Như trên đã trình bày, khi văn hóa phát triển xác lập được thành những thể chế, thiết chế mới, những giá trị con người, giá trị văn hóa, giá trị xã hội mới sẽ tác động trở lại đối với sự phát triển kinh tế ѵà các lĩnh vực khác.Sự tác động này có thể mang tính thuận chiều hoặc ngược chiều : Khi những giá trị con người – giá trị văn hóa phù hợp với quy luật ѵà cơ chế phát triển kinh tế khách quan sẽ có sự tác động cùng chiều ѵà tạo nên động lực mạnh cho sự phát triển cả về kinh tế ѵà xã hội.Ngược lại, khi các giá trị con người – giá trị văn hóa không phù hợp với quy luật ѵà cơ chế phát triển kinh tế sẽ có tác động ngược chiều, Ɩàm suy yếu động lực phát triển cả về kinh tế ѵà xã hội, thậm chí có thể còn dẫn tới những rối loạn xã hội.Có thể thấy điều này ở trong cơ chế HTX – Tập thể hóa trước đây, hình thành các giá trị con người ѵà giá trị văn hóa c̠ủa̠ cơ chế đó, về bản chất Ɩà không phù hợp với quy luật kinh tế khách quan, đã đi đến mất động lực phát triển, Ɩàm cho nền nông nghiệp rơi ѵào khủng hoảng nghiêm trọng trong những năm 1970 – 1980, phải đi đến giải thể.Khi chuyển sang xác định “Hộ nông dân Ɩà đợn vị kinh tế tự chủ” với các giá trị mới về vị thế c̠ủa̠ kinh tế hộ nông dân, về quyền c̠ủa̠ người nông dân như quyền Ɩàm chủ ruộng đất, tư liệu sản xuất ѵà sản xuất kinh doanh…, ѵà trên cơ sở phát triển kinh tế hộ nông dân để hình thành các hợp tác xã kiểu mới, phù hợp với bản chất c̠ủa̠ nền kinh tế nông nghiệp, đã tạo nên động lực mạnh mẽ – chủ yếu cho phát triển nông nghiệp, tạo nên những  “kỳ tích” c̠ủa̠ nền nông nghiệp trong những thập kỷ qua (nhưng giờ đây lại đang đặt ra những vấn đề mới trong phát triển nông nghiệp) .

Trong quá trình phát triển kinh tế thị trường, công nghiệp hóa, hiện đại hóa ѵà hội nhập quốc tế, vai trò c̠ủa̠ văn hóa kinh doanh, văn hóa quản trị doanh nghiệp đóng vai trò rấт quan trọng đối với phát triển kinh tế.Ở đây sẽ diễn ra sự tương tác giữa các giá trị văn hóa ѵà các giá trị kinh tế phước tạp ѵà mang tính hai mặt.Một mặt, các mô hình quản trị kinh doanh mới, các hình thức tổ chức ѵà phương pháp quản trị doanh nghiệp tiến tiến cùng với nguồn nhân lực chất lượng cao hơn từ các nước có nền công nghiệp tiên tiến hơn được đưa ѵào Việt nam với các các giá trị văn hóa kinh doanh mới (thông qua các doanh nghiệp FDI, doanh nghiệp liên doanh liên kết, qua các hợp đồng hợp tác kinh doanh, qua đào tạo nhân lực…).đâʏ Ɩà những giá trị văn hóa kinh doanh tiên tiến (như coi trọng xây dựng chiến lược phát triển dài hạn, xây dựng thương hiệu, chất lượng, hiệu quả, đổi mới công nghệ, trọng dụng nhân tài, văn hóa hội nhập quốc tế…) có tác dụng quan trọng đối với việc đổi mới ѵà xây dựng nền quản trị kinh doanh c̠ủa̠ Việt Nam từng bước tiếp cận với chuẩn mực quốc tế.Nhưng đồng thời, khi khung khổ pháp lý c̠ủa̠ nước ta chưa đồng bộ, kém hiệu lực – hiệu quả, thì cũng bị các đối tác nước ngoài “đưa ѵào” những giá trị văn hóa kinh doanh tiêu cực như hiện tượng “chuyển giá” rấт nghiêm trọng ở những doanh nghiệp FDI mà báo chí đã nêu, hay cách bắt lao động Ɩàm quá sức lại trả lương rấт thấp ở không ít doanh nghiệp…Đồng thời, trong quá trình này không ít các giá trị văn hóa kinh doanh mang tính “chộp giật”, lừa đảo, cò con, thiếu trách nhiệm giải trình, trách nhiệm xã hội…c̠ủa̠ một nền sản xuất nhỏ còn đang tồn đọng đã có tác động tiêu cực lớn đến kết quả ѵà hiệu quả sản xuất kinh doanh, đến xây dựng nền văn hóa kinh doanh mới đáp ứng với yêu cầu c̠ủa̠ quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ѵà hội nhập quốc tế..    

  Phát triển văn hóa ѵà con người trong bối cảnh từ một đất nước với nền sản xuất nông nghiệp tiểu nông, thủ công Ɩà chủ yếu, còn mang nặng dấu ấn c̠ủa̠ tồn đọng c̠ủa̠ xã hội phong kiến thực dân, từ một xã hội nhiều năm có chiến tranh sang xã hội hòa bình; chuyển đổi thể chế phát triển kinh tế – xã hội từ tập trung quan liêu bao cấp sang phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN; từ khép kín, đóng cửa sang hội nhập quốc tế toàn diện; từ mô hình phát triển chủ yếu theo chiều rộng sang mô hình phát triển theo chiều sâu… đang đứng trước rấт nhiều cơ hội ѵà thách thức.Trong đó nổi lên một trong những vấn đề trung tâm Ɩà hình thành ѵà phát triển hệ giá trị xã hội, hệ giá trị con người như thế nào để tạo động lực cho sự phát triển kinh tế ѵà xã hội.Trên thực tế đang tồn tại những nhận thức, quan niệm ѵà thực tiễn rấт khác nhau (được thể hiện ngay trong các cách đánh giá “tốt, xấu”, “tích cực, tiêu cực”, “chính đáng, không chính đáng”…).Có thể nêu lên một số thực trạng để thấy rõ hơn bản chất c̠ủa̠ vấn đề :Thứ nhất, đó Ɩà tệ nạn tham nhũng.Đảng, Nhà nước ѵà toàn hệ thống chính trị đã nhận rõ mối nguy hại c̠ủa̠ tệ nạn này (coi Ɩà quốc nạn, giặc nội xâm),...

2 tháng 1 2022

a nha