K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

2 tháng 11 2023

1. Đặt vấn đề 
Dẫn dắt và giới thiệu nhận định cần làm sáng tỏ. 
2. Giải quyết vấn đề 
Giải thích: 
“..mang được sự thật sâu xa của đời sống bên ngoài”: Phản ánh được chân thực hiện thực khách quan của đời sống, không phải chỉ là bề ngoài mà ở bề sâu.
“…mang được sự thật tâm tình của con người”: Phản ảnh được chân thực thế giới tâm hồn, tình cảm của con người
Tác phẩm nghệ thuật đạt tới cái đẹp là những tác phẩm phàn ảnh được một cách chân thực, sâu sắc hiện thực khách quan cũng như khám phá được thế giới tâm hồn, tình cảm của con người.
Tiêu chí quan trọng để đánh giá tác phẩm văn học có giá trị
Phân tích, chứng minh 
* Cơ sở lí luận 
Bản chất của văn học là phản ảnh hiện thực khách quan và thể hiện tư tưởng, tình cảm của người nghệ sĩ. “Nhà văn là người thư kí trung thành cùa thời đại”( Banlzac)
“Văn học là nhân học”, là khoa học về con người, khám phá con người ở phương diện tâm hồn, tình cảm.. Nội tâm của con người với những trạng thái cảm xúc đa dạng, phức tạp chính là đích hướng tới của văn học “ Thơ là người thư kí trung thành của những trái tim”
-> Thước đo giá trị của một tác phẩm văn học là ở sự chân thực, sâu sắc trong phản ánh đời sống với những qui luật khách quan và thế giới nội tâm của con người.
Lưu ý: Ở phần này, học sinh cẩn đưa ra một số dẫn chứng thật ngắn gọn để chứng minh cho cơ sở lí luận
* Chứng minh, làm sáng tỏ nhận định qua sự nghiệp sáng tác của Nam Cao
Về quan niệm sáng tác: Nhà văn phê phán, xem nhẹ thứ văn chương nhạt nhẽo, diễn một vài ý rất nhẹ, rất nông, quấy loàng trong một thứ văn chương bằng phẳng và quá ư dễ dãi -> Từ quan niệm này, Nam Cao đựơc xem là nhà văn tiêu biểu của chủ nghĩa hiện thực với khả năng phản ánh chân thực hiện thực của đời sống khách quan và khám phá bề sâu tâm trạng con ngươi.
Về thực tiễn sáng tác
Cần phân tích được sự đóng góp của những tác phẩm của Nam Cao trên hai phương diện
Khả năng phản ánh bề sâu hiện thực khách quan với những qui luật của nó, cho người đọc một cái nhìn sâu sắc về đời sống. (Ví dụ: “Chí Phèo”,“Sống mòn”..)
-> Nam Cao không chỉ phản ánh mà còn phân tích, lí giải hiện thực ấy và chỉ ra những qui luật.
Khả năng khám phá, phân tích tâm lí của con người.
-> Bậc thầy của nghệ thuật miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật.
( Ví dụ “Chí Phèo:, “Đời thừa”, “Sống mòn”..) 
(Các em cần phân tích cụ thể, chi tiết các dẫn chứng đưa ra nhằm làm sáng tỏ luận điểm)
Đánh giá chung 
- Với khả năng phản ánh hiên thực khách quan và tâm trạng con người, những sáng tác của Nam Cao đã khẳng định được sức sống lâu bền của mình
- Nhận định của GS Lê Đình Kỵ có ý nghĩa to lớn trong định hướng sáng tác và tiếp nhận, là một tiêu chí, thước đo giá trị của văn học.
3. Kết thúc vấn đề 
Khẳng định lại vần đề cần làm sáng tỏ.

5 tháng 12 2021

Từ lâu đời tre đã trở thành cánh tay đắc lực giúp đỡ người nông dân Việt Nam. Tre giúp người từ những công việc lớn lao như dựng nhà, dựng cửa đến mọi công việc bình dị hàng ngày với những rổ tre, rá tre, tăm tre. Những sợi giang, chẻ, lạt mỏng manh giúp những chiếc bánh chưng ngày Tết vuông vức hơn, đẹp mắt hơn, mang hồn dân tộc. Cây tre còn gắn liền với cuộc đời của mỗi con người chúng ta. Con người từ khi sinh ra, lớn lên, trưởng thành không lúc nào là thiếu hình bóng của tre: từ chiếc nôi đến chiếc giường,... Trên đất nước ta, sắt thép, xi măng đã nhiều hơn tre nứa nhưng giá trị to lớn của chúng sẽ mãi góp một phần không nhỏ vào cuộc sống của con người Việt Nam. Không chỉ là người bạn của người dân trong cuộc sống mà tre còn góp phần công sức của mình vào công cuộc chiến đấu chống quân xâm lược. Ngay trong những câu chuyện ngày xưa kể về anh hùng Thánh Gióng chúng ta đã thấy được hình ảnh của những bụi tre khi được Thánh Gióng lấy để đánh giặc. Thế mới biết, không chỉ có tới cuộc kháng chiến chống Mỹ, chống Pháp mà ngay từ những thế hệ ông cha ta đã biết cách sử dụng tre để chiến đấu chống quân thù. Còn trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, chống Pháp sau này thì tre càng trở nên quan trọng bảo vệ cho quê hương làng xóm. Những thân tre cứng cáp được vót nhọn thành những cây chông mang sức mạnh của riêng mình. Nó đã trở thành nỗi sợ hãi của những kẻ đi xâm chiếm phải kiêng nể mỗi khi có ý định đi chiếm đóng những làng quê của chúng ta.

28 tháng 5 2022

Tham khảo

*nội dung:

-“Thượng kinh kí sự” thể hiện nhân cách cao đẹp của một danh y: coi trọng việc cứu người, coi thường danh lợi, ưa cuộc sống thanh nhàn. Cảnh, việc, người được tác giả nói đến trong tập kí sự mang giá trị tư liệu lịch sử đáng quý. Một cách viết nhẹ nhàng, lôi cuốn, nhiều trang đầy chất thơ.

*nghệ thuật:

-Tài quan sát tinh tế và ngòi bút ghi chép chi tiết, chân thực, sắc sảo đã dựng nên bức tranh phủ chúa với hiện thực cuộc sống vô cùng sinh động

-Tác giả đã lựa chọn khắc họa những chi tiết đặc sắc tạo nên cái thần của cảnh vật. Những chi tiết đắt giá ấy đã giúp cho người đọc hình dung ngay về hiện thực, nhân vật mà tác giả đang nói tới.

-Sự đang xen thơ vào trong tác phẩm làm cho bài kí của ông đậm chất trữ tình.

28 tháng 5 2022

refer:

*nội dung:

-“Thượng kinh kí sự” thể hiện nhân cách cao đẹp của một danh y: coi trọng việc cứu người, coi thường danh lợi, ưa cuộc sống thanh nhàn. Cảnh, việc, người được tác giả nói đến trong tập kí sự mang giá trị tư liệu lịch sử đáng quý. Một cách viết nhẹ nhàng, lôi cuốn, nhiều trang đầy chất thơ.

*nghệ thuật:

-Tài quan sát tinh tế và ngòi bút ghi chép chi tiết, chân thực, sắc sảo đã dựng nên bức tranh phủ chúa với hiện thực cuộc sống vô cùng sinh động

-Tác giả đã lựa chọn khắc họa những chi tiết đặc sắc tạo nên cái thần của cảnh vật. Những chi tiết đắt giá ấy đã giúp cho người đọc hình dung ngay về hiện thực, nhân vật mà tác giả đang nói tới.

-Sự đang xen thơ vào trong tác phẩm làm cho bài kí của ông đậm chất trữ tình.

6 tháng 11 2021

có tính sáng tạo

ngồi yên đợi giặc ko bằng đem quân sang chặn mũi nhòn của giặc

tuyến đầu kháng chiến chống quân xâm lược

làm bài thơ nam quốc sơn hà

6 tháng 4 2019

Đáp án C

25 tháng 12 2018

Đáp án C

3 tháng 3 2017

Đáp án: C

17 tháng 2 2022

Nghệ thuật quân sự nhà Lê Sơ:

+ Thứ nhất: Biết tập hợp nhân dân,đoàn kết cùng nhân dân chống giặc.

+ Thứ hai: Nghệ thuật đánh vào lòng người,tinh thần của giặc từ đó khiến chúng suy sụp ý chí chiến đấu \(\Rightarrow\) Không đánh mà thắng (Nguyễn Trãi- đánh giặc bằng bút)

+ Thứ ba : Không chỉ đánh trên chiến trường quân sự mà nghĩa quân Lam Sơn còn chú trọng trên mặt trận ngoại giao

+ Thứ tư: Tận dụng ưu thế địa lý để đánh giặc

+ Thứ năm: Có đường lối chiến lược,chiến thuật sáng tạo,đúng đắn

16 tháng 2 2022

Tham Khảo:

Năm 1428, phong trào Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo đã đánh bại quân Minh xâm lược và đô hộ nước ta, sau đó ông lên ngôi hoàng đế, chính thức lập ra triều Lê sơ. Đó là kết quả của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc (1417 – 1427), mà trực tiếp là cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Khắc phục hậu quả của chiến tranh, sau khi lên ngôi vua, nhà Lê đã thực hiện nhiều chính sách tích cực nhằm xây dựng đất nước, củng cố tình hình an ninh trật tự. Đặc biệt chú ý đến các vấn đề biên viễn, do vậy, dưới thời Lê Thánh Tông, Đại Việt bước vào thời kỳ phát triển thịnh vượng được coi là hoàng kim của chế độ phong kiến Việt Nam.

Đặc biệt, nhà Lê đã chú ý đến các miền biên viễn và vai trò của đồng bào các dân tộc thiểu số, có những chính sách thích hợp, kịp thời để khai thác sức mạnh của nhân dân trong công tác bảo vệ biên cương của Tổ quốc.

Thấm nhuần tư tưởng minh triết phương Đông "dân vi quý", hiểu rõ sức mạnh của dân, sức dân như nước, dân là gốc của đất nước - "dân duy bang bản", triều đình nhà Lê luôn xác định, nhân dân vùng biên là những người "đứng mũi chịu sào", là lực lượng chủ yếu bảo vệ biên cương. Bởi vì, họ là lực lượng luôn có mặt ở vùng biên, thường xuyên nắm bắt những hoạt động ở gần biên giới của ngoại bang, kịp thời ngăn chặn những hành vi lấn chiếm, xâm lược. Bởi vậy, nhà Lê luôn coi đây là sức mạnh to lớn và lấy làm “kế sâu gốc bền rễ”. Tư tưởng lấy nhân dân làm gốc và phát huy sức mạnh của nhân dân không chỉ được vua Lê chú trọng mà vị khai quốc công thần Nguyễn Trãi đã khẳng định: “Chở thuyền cũng là dân, lật thuyền cũng là dân” (Lịch triều hiến chương loại chí, Phan Huy Chú, xuất bản năm 1960). Nhân dân với tinh thần sắt son trong bảo vệ biên cương, đã tạo nên sức mạnh to lớn để Đại Việt ở thế kỷ này có thể đương đầu với mọi khó khăn thử thách.

Sức dân như sức nước, đó là chân lý muôn đời, đối với công tác bảo vệ biên cương, nhân dân được coi là lực lượng nòng cốt. Với đặc điểm biên cương xa xôi, đồn trú lại ít mà triều đình ở xa, sức mạnh của nhân dân đã làm nên nhiều thắng lợi. Nhân dân khu vực biên giới là phên giậu của triều đình, thực sự là tai mắt, là thiên la địa võng để giữ yên bờ cõi. Đồng bào các dân tộc miền biên giới là lực lượng thường trực rộng khắp để lập thành phòng tuyến nhân dân bảo vệ an ninh, trấn áp trộm cướp ở các làng bản xa xôi. Khi có chiến tranh, lực lượng dân binh, hương binh, thổ binh (quân của các thổ tù, châu mục) là những người trực tiếp đánh tiêu hao sinh lực địch, góp phần ngăn chặn sự xâm lược của ngoại bang. Do đó, đây vừa là lực lượng đầu tiên, tại chỗ trực tiếp bảo vệ an ninh trật tự vùng biên, đấu tranh, đối phó với các hoạt động xâm lấn lãnh thổ của nước láng giềng, vừa phối, kết hợp với quân chính quy của triều đình tiến đánh các đạo quân vũ trang xâm lược.

Với địa hình biên giới rừng núi hiểm trở, sông suối chia cắt; vùng biển đảo ngăn cách, khi có chiến sự không thể huy động kịp binh mã, lương thảo để bảo vệ bờ cõi. Do vậy, triều đình nhà Lê luôn coi trọng biện pháp huy động lực lượng nhân dân tại chỗ, vũ khí tại chỗ, lương thảo tại chỗ nhằm thiết lập thế trận nhân dân chống trả quân xâm lược; đồng thời, tiêu hao, hãm chặn đưa địch vào thế bất lợi, bị động ngay tại cửa ngõ biên giới, tạo thời cơ có lợi cho chính binh của triều đình đập tan đội quân xâm lược. Với quan điểm "bách tính giai vi binh” (trăm họ đều là lính), nhà Lê đã tập hợp được sức mạnh của nhân dân.

Để làm được điều ấy, nhà Lê đã thực hiện chính sách ban phong chức tước, quyền tự quản, đối sách mềm mỏng với man dân miền núi. Bên cạnh đặt riêng các chức Thiên phán, Tào vận, Phòng ngự sứ, Chiêu thảo sứ, triều đình còn chú trọng đặt thêm các chức như Tri châu, Đại tri châu dành riêng cho các thổ tù. Vua Lê chủ trương ban chức tước, ban quốc tính, cấp ruộng đất, trao bổng lộc nhằm biến họ thành quan chức triều đình. Đặc biệt, có Nhập nội tư không Xa Khả Sâm được hưởng đặc ân, vua ban bổng lộc và được ban quốc tính. Các con trai của Sâm đều được phong làm Đại tướng quân có nhiệm vụ trông coi miền biên cương Đà Giang.

Cùng với đó, vua Lê rất chú trọng đến công tác an dân, cố kết các dòng họ, vỗ về đồng bào các dân tộc thiểu số, để họ gắn bó với bản làng, quê hương, sẵn sàng bám trụ bảo vệ biên cương đất nước. Đối với những dòng họ lớn có uy tín trong vùng, nhà Lê cho duy trì và phát triển chế độ thế tập, tự cai quản dân tộc mình các địa phương biên giới. Tiêu biểu là Mường Lễ giao cho họ Đèo cai quản. Khi Đèo Cát Hãn làm phản, nhà Lê dẹp loạn xong lại tiếp tục giao cho con trai Hãn là Đèo Mạnh Vương nối nghiệp cha cai quản. Các dòng họ Xa, họ Cầm ở Hưng Hóa, họ Vi ở Lạng Sơn, họ Hoàng, họ Bế ở phủ Cao Bình (Thái Nguyên)... cũng được duy trì nối đời thế tập.

Để sử dụng sức dân vào công tác quản lý, bảo vệ chủ quyền, an ninh trong khu vực biên giới, nhà Lê đã thực hiện chính sách ưu đãi với cư dân nơi biên giới, giảm nhẹ thuế và các nghĩa vụ khác, tôn trọng văn hóa và phong tục tập quán của đồng bào các dân tộc thiểu số, nhưng “giáo hóa” họ theo xu thế truyền thống tốt đẹp của từng dân tộc, thống nhất, đồng đều giữa các cộng đồng tộc người. Các triều đại phong kiến, nước ta đều cho mở các chợ biên giới để thông thương với nước ngoài, một mặt, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân; mặt khác, để họ do thám tình hình các nước láng giềng, kịp thời phát hiện, ngăn chặn người nước ngoài vào sâu nội địa. Đồng thời, Nhà nước đưa ra nhiều chính sách: Khuyến khích nhân dân, kể cả thành phần tù phạm, chú trọng các “khổn quan” phát triển đồn điền, khai khẩn đất hoang, mở rộng diện tích canh tác; cho vay vốn, giống, cấp dụng cụ, trâu bò, nhằm phát triển kinh tế, xác lập chính quyền Nhà nước ở biên giới, khẳng định chủ quyền lãnh thổ. Bên cạnh đó, Nhà nước còn thực hiện nhiều hình thức khen thưởng (với khổn quan thì tăng thêm một cấp, với nhân dân ban tặng đất vừa khai khẩn, không thu thuế nhiều năm hoặc đánh thuế nhẹ), động viên quan chức, nhân dân các dân tộc thiểu số tham gia khai khẩn đất hoang, lập đồn điền ở miền biên viễn.

 

Cán bộ, chiến sĩ Đồn Biên phòng Pa Tần, BĐBP Lai Châu xuống bản tuyên truyền đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước tới người dân nơi đơn vị đóng quân. Ảnh: Đức Duẩn

Để an dân, nhà Lê còn thực hiện nhiều biện pháp: Lập các kho dự trữ lương thảo ở các địa phương để cứu đói khi thiên tai dịch bệnh, để việc biên phòng được đầy đủ, bảo đảm cho việc động binh khi biên phòng hữu sự. Cùng với chính sách ưu đãi đặc biệt, nhà Lê cũng sử dụng biện pháp cứng rắn, trấn áp những thổ tù, châu mục không bảo vệ được sự toàn vẹn lãnh thổ, nhưng cũng sẵn sàng tha tội, để họ trở về phụng sự triều đình.

Với quan niệm nhân dân là nguồn gốc của mọi thắng lợi trong công cuộc đấu tranh bảo vệ Tổ quốc, nhà Lê đã nêu cao vai trò của nhân dân với tuyên ngôn “chở thuyền cũng là dân, lật thuyền cũng là dân”. Mọi chính sách xây dựng phát triển đất nước đều đem lại quyền lợi cho nhân dân, đây là điều không phải triều đại phong kiến nào cũng làm được. Sức mạnh của nhân dân là nền tảng để thực hiện tốt mọi đường lối, chủ trương của Đảng như Hồ Chủ tịch từng căn dặn: “Gốc vững thì cây mới bền/ Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân”.