K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

2 tháng 10 2024

Chào mọi người! Mình là mèo con, và hôm nay mình sẽ kể cho các bạn nghe một câu chuyện rất đặc biệt mang tên "Trông Trăng".

Vào một đêm trăng sáng, khi ánh trăng chiếu rọi khắp nơi, mình, mèo con, đang nằm trên mái nhà, ngắm nhìn bầu trời đầy sao. Đột nhiên, mình thấy ánh trăng toả sáng mạnh mẽ, và mọi thứ xung quanh bỗng trở nên lung linh huyền ảo. Mình không thể cưỡng lại sức hút của ánh trăng nên quyết định ghé qua vườn để ngắm nhìn cho rõ hơn.

Trong vườn, các bạn thú cùng mình đã tụ tập lại. Có chó, có gà, và cả một chú thỏ nữa. Tất cả chúng mình đều hứng thú với ánh trăng và bắt đầu trò chuyện về vẻ đẹp của nó. Chú chó sủa: "Trăng hôm nay tròn và sáng quá, giống như một cái đĩa bạc!" Còn cô gà thì lại cất tiếng kêu: "Mình chưa từng thấy trăng đẹp như vậy, có thể chúng ta cùng nhau nhảy múa dưới ánh trăng không?"

Thế là bọn mình bắt đầu tổ chức một buổi tiệc nhỏ dưới ánh trăng. Chú thỏ nhảy nhót, còn mình thì tìm cách bắt chước các điệu nhảy của mọi người. Chúng mình vui vẻ ca hát và cùng nhau thưởng thức những giây phút tuyệt vời.

Khi bầu trời dần chuyển màu, và ánh trăng dần mất đi ánh sáng rực rỡ, mình cảm nhận được sự tiếc nuối. Nhưng những kỷ niệm đẹp và tiếng cười của bạn bè vẫn còn vang vọng trong tâm trí mình. Tuy ánh trăng đã mờ đi, nhưng tình bạn và niềm vui mà nó mang lại sẽ mãi trong trái tim chúng mình.

Và đó là câu chuyện của chúng mình, những người bạn thú nhỏ trông trăng dưới bầu trời đêm. Hy vọng các bạn thích câu chuyện này!

Đóng vai người lính kể lại bài thơ Ánh trăng - Mẫu 1 Sau khi đất nước thống nhất, tôi giải ngũ trở về quê nhà. Ba năm sau, tôi chuyển lên thành phố sinh sống cùng các con tôi. Thú thật, tôi vẫn thích sống ở quê nhà hơn. Nhưng các con tôi cứ bảo không có ai chăm sóc nên tôi đành nghe theo. Cuộc sống nơi thành phố đầy tiện nghi. Các con tôi đều là công chức, viên chức cả nên chẳng thiếu thứ gì. Vừa bước ra khỏi cuộc sống khó khăn của chiến tranh thì đây quả là cuộc sống đáng mơ ước. Tôi tận hưởng tất cả những ngọt ngào của cuộc sống ấy. Không còn lo âu, không còn mất ngủ, không còn nghe tiếng pháo ì ầm mỗi đêm. Tôi tận hưởng những giấc ngủ thanh bình và những bữa ăn đầy đủ và nhanh chóng quên đi mọi khổ nhọc xưa kia. Mà nhớ để làm gì. Chiến tranh đã đi qua, vết thương xưa cũng đã lành rồi. Tưởng tôi đã mãi mãi quên đi tất cả, mãi mãi ngủ quên trong đời sống tiện nghi và giả tạo này. Tưởng ánh sáng hào nhoáng của phố thị sẽ chôn chặt đời tôi trong bốn bức tường vôi kín đáo, an toàn nhưng lạnh lẽo. Nhưng không! Một đêm nọ, nó đã đến, cái vầng trăng tình nghĩa năm xưa, đánh thức hồn tôi trong cơn mộng hão huyền. Đó là một đêm thành phố bỗng cúp điện. Cúp điện ở thành phố không phải là chuyện hiếm gặp. Nhưng đêm ấy, khi ánh sáng giả dối kia vụt tắt, căn phòng rơi vào bóng tối. Tôi vội bật tung cửa sổ tìm chút gió trời thì bất ngờ, ánh sáng của vầng trăng tràn vào khắp căn phòng. Ánh sáng phóng thẳng vào đôi mắt, chiếu rọi vào hồn tôi. Ôi cái thứ ánh sáng quen thuộc và kì diệu ấy trải một lớp sáng mờ mờ trên nền gạch lấp loáng. Tôi ngẩng đầu nhìn đăm đăm lên trời cao. Bầu trời thật rộng lớn. Bầu trời thật trong trẻo. Vầng trăng tròn ngự trị khắp một miền không gian rộng lớn. Dường như nó đang chiếm lĩnh cả thành phố, cả bầu trời cao đến vô tận. Chợt nhớ đến bài thơ xưa của Lý Bạch: “Đầu giường ánh trăng rọi Ngỡ mặt đất phủ sương Ngẩng đầu nhìn trăng sáng Cúi đầu nhớ cố hương”. Ánh trăng hiền hòa soi rọi lòng tôi, mơn man như có cái gì đó đang xoa dịu khắp người. ÁNh trăng gợi nhớ đến những ngày xưa tháng cũ. Ánh trăng ấy đã theo tôi đến suốt cuộc đời. Thuở thiếu thời chốn quê xưa, trăng đi vào cuộc sống như người bạn thâm tình cố hữu. Tôi nhớ đến những đêm trăng thanh bình trên dòng sông. Vầng trăng cao lấp lóa ánh sáng trong dòng sông sâu thẳm, mơ huyền trong tiếng chùa vọng xa. Tôi nhớ những đêm trăng tát nước trên đồng. Ánh trăng vàng cứ chập chờn, vỡ rồi liền lại theo nhịp cầu đưa. Hay ánh trăng ma quái khu nghĩa địa sau làng mà bọn nhỏ chúng tôi thường hay chơi trốn tìm sau ấy. Vầng trăng ấy gắn chặt vào đời tôi, hết quãng đời tuổi thơ trên đồng dưới bể. Nhiều đêm nằm dưới ánh trăng sáng, nghe tiếng chim kêu mà đắng lòng đắng dạ. Đất nước đang chiến tranh. Quê hương đang bị giày xéo dưới bom đạn của kẻ thù, đau thương biết mấy. Tôi nhìn trăng. Trăng cũng nhìn tôi. Cả hai im lặng không nói nên lời nhưng thấu hiểu lòng nhau. Tháng sau, tôi lên đường đi chiến đấu. Trăng cũng theo tôi lên rừng lên núi. Trải qua bao cuộc chiến chinh trăng vẫn bên tôi, thủy chung và tình nghĩa. Trăng soi rọi bước hành quân đêm rừng sâu thẳm. Trăng lao vào cuộc chiến đấu. Trăng xung phong mở lối dẫn đường quân ta tiến tới. Trăng tiến công vào kẻ thù. Trăng là người đồng chí, đồng đội của chúng tôi. Nhiều đêm, giữa rừng sâu thanh vắng, nằm trên võng dù, giữa đường hành quân, nhìn ánh trăng sáng trên trời cao bỗng nhớ quê nhà tha thiết. Ánh trăng hiền hòa giữa trời cao xanh, ánh sáng vằng vặc soi khắp núi rừng. Tôi ước gì mai này khi kẻ thù bị tiêu diệt, tôi trở về quê xây dựng cuộc sống mới. Cuộc sống với với cái cày con trâu. Ngày ngày cuốc vườn trồng rau, đêm đêm uống cốc trà ấm, ngắm vầng trăng tròn. Cuộc đời như thế đủ thú lắm rồi. Ánh trăng chiếu rọi vào nơi tôi nằm như đồng cảm và an ủi tôi. Ánh trăng thấu hiểu lòng tôi, đến xoa dịu cơn đau trong trái tim tôi. Trái tim chất chứa hận thù. Tôi thầm hứa với trăng cao sẽ anh dũng chiến đấu đến khi đất nước sạch bóng giặc thù. Cuộc sống tươi đẹp đang chờ tôi. Người thân đang ngóng đợi tôi. Nước mắt tôi chợt rưng rưng khi nghĩ điều đó. Than ôi! Có ngờ đâu, khi cuộc chiến kết thúc, lời hứa năm xưa tôi đã quên đi từ bao giờ. Bước ra khỏi chiến tranh, tôi rơi vào trạng thái hụt hẫng. Một phần vì quá vui mừng và hạnh phúc. Một phần vì tôi trở về với cuộc sống thường ngày với những ràng buộc mới. Cuộc sống vật chất đầy đủ, tiện nghi khiến tôi say mê tận hưởng để bù đắp lại bao nhiêu năm vất vả nơi rừng thiêng nước độc. Nhiều lúc cận kề sinh tử, tưởng sẽ không thể trở về để gặp mặt vợ hiền con thơ. Công việc mới trong thời kì dựng xây đất nước khắc phục hậu quả chiến tranh khiến tôi cũng bận rộn tối ngày. Hết đi sớm lại về khuya khiến tôi không còn thời gian để nghĩ ngợi. Hình bóng quê hương và muôn vàn kỉ niệm tuy nhiên vẫn còn ở trong trái tim tôi nhưng từ lâu đã bị khép lại, giấu kín. Đô thị phồn hoa, diễm lệ, ánh đèn màu lấp loáng soi rọi khắp mặt đất, khắp bầu trời. Vầng trăng nghĩa tình năm xưa vẫn cứ từng đêm đi qua bầu trời. Nhưng gần như tôi không hề hay biết. Tôi ngửa mặt lên nhìn vầng trăng. Trăng nay vẫn thế, vẫn tròn trịa và tỏa sáng. Hình như có cái gì đó đang rưng rưng. Trong lòng tôi bỗng hiện rõ hình ảnh quê hương thương yêu. Từng cánh đồng, từng ngọn núi, con sông bỗng trở về ào ạt. Bất chợt tôi bật khóc. Giọt nước mắt lăn dài trên má nóng hổi. Đó là nước mắt xót xa những tháng ngày xưa cũ. Giọt nước mắt hối hận khi nhận ra bấy lâu mình đã hững hờ với quá khứ nghĩa tình, hững hờ với vầng trăng thủy chung. Dù chúng tôi, những người lính, từ lâu đã không hề nhớ tới. Nhưng vầng trăng bao năm qua vẫn không thay đổi. Trăng vẫn luôn ở cạnh chúng tôi, dõi theo chúng tôi. Trăng nghĩa tình thủy chung còn chúng tôi lại vô tình, lạnh nhạt nó nó. Ánh trăng lặng im phăng phắc, không nói gì. Đó là sự im lặng nghiêm khắc nhắc nhở tôi về quá khứ đau thương nhưng nghĩa tình. Trăng không giận dữ, nghiêm nghị mà bao dung càng khiến tôi thêm đau lòng. Tôi nhận ra bấy lâu mình đã hững hờ với quá khứ, hững hờ với nỗi đau thương mà dân tộc vừa trải qua. Nhiều lần tôi đã tự ngụy biện rằng hoàn thành tốt công việc trong hiện tại là đã có công với đất nước rồi. Và những gì mình nhận được là do công sức mình bỏ ra, là hoàn toàn xứng đáng. Nhưng kì thực, đó là một cuộc sống ích kỷ và vô tâm. Biết bao con người vẫn đang âm thầm hi sinh bởi bom đạn của kẻ thù còn sót lại, bởi đói khổ triền miên. Nỗi đau thương vẫn còn âm ỉ trong lòng dân tộc. Kẻ thù đã rời đi, nhưng hậu quả của chúng gây ra vẫn tiếp tục gây tổn thương cho biết bao người. Biết bao gia đình, bao con người chưa thể tìm thấy được hạnh phúc. Cả dân tộc đang gượng mình gắng sức vượt qua. Còn tôi thì ngập ngụa, sướng vui trong đời sống vật chất. Càng suy nghĩ, tôi càng thấy hối lỗi. Cảm ơn vầng trăng đã giúp tôi thấu hiểu và nhận rõ bản thân mình. Tôi phải làm gì đó để xứng đáng với dân tộc. Tôi cần làm gì đó để bù đắp lại lỗi lầm. Tôi phải sống xứng đáng với tinh thần người lính trong thời đại mới, tiếp tục tiên phong trong những nhiệm vụ khó khăn nhất của dân tộc. Chắc chắn rồi. Nhất định tôi phải gắn kết mình với những nhiệm vụ của dân tộc. Nhất định phải biết trân trọng quá khứ và sống xứng đáng với những gì mình đã nhận được. Cuộc sống này không chỉ dành cho riêng tôi mà dành cho cả dân tộc, dành những con người anh hùng đã cống hiến hết mình vì độc lập, tự do của tổ quốc Đóng vai người lính kể lại bài thơ Ánh trăng - Mẫu 2 Vào những ngày cuối tuần, tôi thường hay ngồi đọc sách, đó là một cách để thư giãn sau một tuần đi học mệt mỏi. Buổi sáng chủ nhật hôm ấy, tôi vẫn đọc sách như mọi khi thì bỗng bố tôi đi chơi. Tôi khá bất ngờ vì một người bận rộn như bố thường tranh thủ nghỉ ngơi ở nhà vào những ngày cuối tuần với những công việc đã thành thói quen như xem tivi, đọc báo… Tôi ngạc nhiên vội hỏi rằng hai bố con sẽ đi đâu, bố mỉm cười: - Đó là một nơi rất thú vị, khi nào đến thì con sẽ biết. Nghe bố nói vậy, tôi không hỏi nữa và háo hức chuẩn bị đi ngay. Tôi đã tưởng tượng ra nào là công viên, khu vui chơi… nhưng không ngờ rằng đó lại là một quán café ở Hàng Buồm, Hồ Gươm thật giản dị với cái tên “Lính”. Tôi cảm thấy tò mò và thích thú khi bước vào. Đây là một quán café rất lạ mà tôi chưa bao giờ đặt chân đến. Mọi vật trong căn phòng có cái gì đó rất thiêng liêng. Những chiếc ba-lô của người lính, những chiếc mũ cối, những khẩu súng trường, áo chống đạn… Tất cả như đưa tôi trở về với quá khứ của một thời chiến tranh bom rơi đạn nổ. Tôi nhìn toàn bộ căn phòng, nơi đây không khác gì một “viện bảo tàng nhỏ” trưng bày những kỷ vật thời chiến tranh. Đang say sưa ngắm nhìn xung quanh, chợt tôi thấy một bác trung niên tầm tuổi bố tôi, bước ra chào hỏi và bắt tay bố thân mật. Sau đó, tôi mới biết đó là một buổi hẹn trước của bố và một người bạn hồi còn đi lính. Quán hàng hôm nay thật yên tĩnh mà có cảm giác như không gian rộng lớn thu nhỏ về một góc nơi ba con người đang nói chuyện. Ba cốc cafe bốc hơi nghi ngút, mở đầu cho cuộc nói chuyện giữa bố con tôi và người bạn của bố. Bố giới thiệu với tôi rằng bác tên Trung, là người bạn thân của bố thời chiến. Bố và bác Trung đã cùng nhau vượt qua bao khó khăn, thử thách trong những năm tháng chống Mỹ ác liệt. Thoáng nhìn qua người bạn của bố mình, tôi thấy dù bằng tuổi bố nhưng trông bác già dặn hơn đôi phần. Khuôn mặt vuông chữ điền cùng với những vết chân chim nơi viền mắt tạo nên một vẻ hiền hòa, từng trải và có cái gì đó trầm lặng. Con người bác toát lên một vẻ giản dị mà nghiêm trang đồng điệu với không khí của quán cafe kỳ lạ này. Đang mải mê suy nghĩ chợt bác Trung hỏi tôi: - Chắc cháu thắc mắc về quán café này lắm nhỉ? Tôi liền đáp lại: - Dạ, vâng ạ. Sao quán cafe này lạ thế hả bác? Bác cười xòa, uống một ngụm cafe, tiếp lời: - Quán cafe này với bác không phải là một cửa hàng để kinh doanh mà nó là nơi lưu giữ những kỉ niệm, hồi ức về những năm tháng không thể nào quên. “Thì ra là vậy” – Tôi tự nói với chính mình. Tôi đã phần nào hiểu được mục đích mà bố dẫn tôi đến đây. Thấy thích thú, tôi hỏi: - Vậy ấn tượng đặc biệt nhất của bác về thời chiến là gì ạ? Bác Trung không vội trả lời, ánh mắt hướng về góc quán, nơi trưng bày những bức hình thời chiến. Đó là tấm hình của một vầng trăng tròn, đẹp đến lạ thường. Vẫn nhìn vào đó, bác nói với tôi như đang tự nói với chính mình: - Đối với bác chiến tranh không phải chỉ về hình ảnh bom rơi đạn nổ mà còn là về hình ảnh một người bạn đặc biệt đã giúp bác nhận thức được nhiều điều về chân lí cuộc sống – vầng trăng. Tôi thoáng ngạc nhiên, dường như đọc được vẻ sững sờ trên khuôn mặt tôi, bác kể tiếp: - Hồi nhỏ bác sinh ra và lớn lên ở một miền quê mà nơi ấy có tất cả những vẻ đẹp đơn sơ, giản dị nhất của làng quê Việt Nam. Nơi ấy có những đồng lúa, những dòng sông cùng với biển rộng và cát trắng. Vầng trăng đã gắn bó với bác từ thời ấu thơ, bác có thể ngắm nhìn cái ánh sáng hư ảo ấy ở mọi nơi. Bác vẫn còn nhớ, hồi nhỏ và mỗi buổi tối, bác cùng những người bạn của mình ra ngoài biển vui chơi. Ánh trăng trên mặt biển sáng lấp lánh như đang lướt theo những con sóng vỗ vào bờ. Làn gió thổi nhẹ mang theo cái vị mặn mòi của biển cả, tiếng sóng biển rì rào và vầng trăng tỏa sáng lấp lánh mỗi đêm mùa hạ êm như nhung đã in dấu và tuổi thơ bác. Rồi khi đi bộ đợi, vầng trăng cũng lại gắn liền với bác. Chắc cháu sẽ nghĩ rằng cuộc đời của một người chiến sỹ sẽ chỉ có súng đạn, khói lửa chiến tranh nhưng đời lính cũng có những giây phút rất nên thơ và lãng mạn. Những lúc ấy, vầng trăng là tri kỷ. Trăng đã luôn đồng hành với bác trên những con đường hành quân ra trận, những buổi họp đội, những lần phục kích chờ giặc. Nhờ có vầng trăng, những người lính như được tiếp thêm sức mạnh, thổi bùng lên những ước mơ và hy vọng hòa bình. Bác đã ngỡ rằng mình sẽ không bao giờ quên người bạn tâm tình ấy. Vậy mà… Ngừng lại, dường như tôi có thể nghe thấy một tiếng thở dài nơi bác. Im lặng, tôi chờ bác nói tiếp: - Sau khi kết thúc chiến tranh, bác lên thành phố sinh sống. Khác với cuộc sống khổ cực nơi thôn quê thời chiến, cuộc sống thành thị tiện nghi và hiện đại hơn nhiều. Ngày trước dường như ánh sáng của vầng trăng là duy nhất, mỗi đêm hè chỉ ao ước ngồi ở thềm nhà để ngắm trăng. Học cũng chỉ dưới ánh sáng lung linh huyền ảo ấy. Nhưng bây giờ đã khác. Không cần đến trăng, mọi sinh hoạt của con người đều được rọi sáng bằng đèn điện. Thế là bác cũng chẳng còn thói quen ngắm trăng nữa. Mỗi khi đêm xuống, vầng trăng xuất hiện, bác cũng không còn cái háo hức chờ đợi. Vầng trăng đã trở thành người dưng không quen biết. Cho đến một hôm, cả tòa nhà nơi bác sống bị mất điện. Căn phòng tối om, bác vội bật tung cửa sổ, vầng trăng xuất hiện ngay trước mắt bác. Trong lòng bác lúc ấy như có một xúc cảm mạnh mẽ trào dân khiến khóe mắt như có gì rưng rưng. Nhìn thấy vầng trăng quen thuộc ấy, bao nhiêu kỷ niệm ùa về. Những khoảnh khắc ngắm trăng hiện ra như trước mắt. Vầng trăng vẫn tròn đầy, vẫn lung linh mặc cho thời gian có chảy trôi mặc cho người đời có thay đổi. Chỉ trong giây phút ấy, bác đã hiểu ra được nhiều điều. Bác tự trách mình đã vô tâm, đã quên đi một người bạn tri âm tri kỷ. Giọng nói bác trầm ấm, đôi mắt bác đỏ hoe, có cái gì đó lắng đọng. Có lẽ vì bác xúc động quá. Và như có một điều gì đã vỡ lẽ trong tâm trí tôi. Tôi hiểu rằng mình được sinh ra và lớn lên ở thời bình không hiểu được cái khó khăn gian khổ thời chiến. Hạnh phúc, sự yên ấm ngày hôm nay có được là nhờ sự hi sinh nương náu của biết bao người. Vì vậy, mình phải biết nhìn lại quá khứ, suy nghĩ về những điều mình đã làm, về mọi người xung quanh để cảm, để hiểu và để trân trọng những giây phút của hiện tại. Trước khi hai con bố con tôi trở về nhà, bác Trung đã tặng tôi bức tranh vầng trăng của quán và ôn tồn dặn tôi rằng: - Cuộc sống giờ đây bộn bề với biết bao nhiêu tấp nập và hối hả, con người ta dễ vô tâm, lãnh cảm với những giá trị truyền thống, với quá khứ nghĩa tình. Đôi khi cháu phải biết nhìn “ngược”, sống chậm lại, nghĩ khác đi và yêu thương nhiều hơn. Tôi liền nói cảm ơn với bác vì nhờ có câu chuyện của bác ngày hôm nay mà cô bé này đã có thêm một bài học bổ ích trong cuộc sống. Trên đường trở về nhà, tôi chợt nhớ đến một câu nói của nhà văn Nguyễn Minh Châu: “Xin mọi người hãy tạm ngừng một phút cái nhịp sống bận bịu, chen lấn để tự suy nghĩ về chính mình”. Đóng vai người lính kể lại bài thơ Ánh trăng - Mẫu 3 Tôi từng là một người lính, tay cầm súng đi chiến đấu bảo vệ tổ quốc. Và giờ đây, những hồi ức lắng đọng về một thời quá khứ và đã có một sự việc khiến cho tôi như được giác ngộ, được nhìn lại cách sống của bản thân mình. Thời thơ ấu của tôi rất êm đềm khi sống ở một làng quê thanh bình, chỉ lác đác vài căn nhà vách nứa đơn sơ. Người dân nơi đây sống với nhau rất chan hòa, gắn bó với thiên nhiên. Quê tôi nghèo, thiếu ánh điện nên mỗi khi màn đêm buông xuống cũng chỉ có vầng trăng tròn soi sáng cho lũ trẻ chúng tôi vui chơi, xuống sông cất vó mò cua bắt tép. Có lúc tôi lại thích lặng lẽ ngồi bên bờ sông, ngắm nhìn dư ảnh của trăng đang hiện lên trên mặt nước, thong thả, lấp lánh trông như một tuyệt cảnh, đẹp đẽ biết bao. Cuộc sống an bình ngỡ cứ trôi qua như vậy, nào ngờ chiến tranh bùng nổ, là một đứa con dân của đất nước, tôi phải xa rời quê hương mà đi vào nơi chiến trường, bom rơi đạn nổ. Sự thiếu thốn về vật chất, quân trang; nơi rừng sâu âm u hiểm hoạ luôn là nỗi lo của tôi. Nhưng nhờ có người đồng đội, cả vầng trăng luôn sát cánh bên tôi, tôi như có thêm nguồn sức mạnh trải qua mọi gian khổ. Có đêm tôi cùng anh đồng chí gác đêm, anh hỏi tôi: - Anh nghĩ xem...ai là người bạn, tri kỉ của anh từ thửa bé? - Tất nhiên là vầng trăng sáng trên kia rồi. - Tôi trả lời anh, không chút đắn đo - Ừ nhỉ.....- Anh nhìn lên bầu trời xanh cao, lặng lẽ nhìn, chợt cười. Tôi trả lời như vậy, vì tôi luôn nghĩ rằng ánh trăng là người luôn bên cạnh tôi dù là nơi đâu, soi đường dẫn lối cho tôi ra chiến trận. Với tôi, trăng không chỉ đơn thuần là một thứ tự nhiên tạo hoá, mà đó là ng bạn tri kỉ, tình nghĩa, thuỷ chung ngay chính nơi rừng thiêng nước động này. Chiến tranh qua đi, hòa bình lập lại, tôi giải ngũ trở về quê nhà. Không lâu sau đó tôi cũng lên thành phố sinh sống và lập gia đình. Trong căn nhà sang trọng, tiện nghi không còn thiếu thốn như xưa, tôi chẳng hề lo lắng gì nữa. Bước ra đường đêm, ánh điện bao quanh khiến tôi lặng quên đi vài thứ quang trọng trong đời. Ánh trăng dù ngày nài cũng đi qua ngõ nhưng lại bị tôi phó mặc, coi như người dưng qua đường. Rồi một hôm, khi tôi đang dựa trên chiếc ghế êm ái, tay cầm đọc một quyển sách hay, bỗng dưng căn phòng buyn-đinh đang sáng liền tối sầm lại. Bất giác, tôi vội chạy khỏi, bật tung cánh cửa sổ trước đó đã khoá chặt, và hiện lên trước mắt tôi chính là vầng trăng nào..... Những hồi ức ngày xưa dần hiện về trong kí ức tôi: sông, rừng, cây, núi... và cả trăng. Tôi lặng người, chỉ biết ngửa mặt lên nhìn trăng, mọi thứ xung quanh lúc này trở nên vô định. Lúc bấy giờ, trăng vẫn tròn vành vạnh, vẹn nguyên tình nghĩa xưa. Trăng im lặng ko nói gì, nhưng tôi hiểu, trăng đang nghiêm khắc nhắc nhở tôi như đang lên án, đang tố cáo chính cách sống vô cảm, hững hờ của tôi. Tôi chỉ biết ân hận, tự trách như đang chất vấn chính lương tâm mình, tôi càng giật mình khi nhận ra chính mình là người đã quên đi mối ân nghĩa khi xưa. Nhờ trăng mà tôi có thể được một lần ngoảnh đầu nhìn lại bản thân mình, cũng như rút ra được bài học về cách sống đạo đức: "uống nước nhớ nguồn", ân nghĩa thuỷ chung cùng quá khứ. Đóng vai người lính kể lại bài thơ Ánh trăng - Mẫu 4 Tôi đã được sinh ra và lớn lên ở quê hương. Tuổi thơ tôi gắn liền với những cánh đồng bát ngát thẳng cánh cò bay, với những dòng sông hiền hòa chở nặng phù sa, với những hồ bể trong đầy tôm cá. Đối với tôi, đó là những năm tháng tuyệt vời nhất. Năm tháng cứ trôi đi êm đềm. Rồi một ngày kia, chiến tranh bùng nổ. Để bảo vệ cho Tổ quốc thân yêu, tôi phải rời quê hương để đi lính. Cuộc sống của tôi lúc này đã thay đổi. Tôi dần dần gắn bó với những ngọn núi, với cánh rừng hoang vu sặc mùi bom đạn. Nhưng trong lòng tôi vẫn khắc khoải một nỗi nhớ da diết. Tôi nhớ làng, nhớ gia đình, nhớ lối xóm. Trong những lúc như thế, tôi thường nhìn trăng. Vầng trăng như một người bầu bạn cùng tôi, có thể an ủi, làm nguôi ngoai đi nỗi nhớ quê hương. Trăng chia sẻ cùng tôi biết bao tâm tư tình cảm, bao nỗi nhớ. Trong suốt chặng hành trình gian lao cực khổ, trong cuộc sống trần trụi với thiên nhiên, cây cỏ, vầng trăng mộc mạc như một người bạn tri kỷ, luôn đồng hành và sát cánh bên tôi. Đã có lúc, tôi ngỡ rằng hứa sẽ không và không bao giờ quên cái vầng trăng tình nghĩa ấy. Và chiến tranh kết thúc, hòa bình lặp lại. Thoát khỏi cuộc sống bần cùng, nghèo khổ trong chiến tranh là cái khát vọng lớn nhất của những người lính chúng tôi. Vì vậy, tôi về sống ở thành phố, trong một căn phòng buyn-đinh tiện nghi. Cuộc sống ở thành phố rất hiện đại. Đâu đâu cũng có những ánh điện, cửa gương. Dần dà, tôi đã quen cái cuộc sống của thành thị. Và trong chính sự xa hoa đó, tôi đã quên đi vầng trăng – người bạn tri kỷ của mình. Mỗi tối, trăng đi qua ngõ mà như người dưng qua đường. Xa lạ, không quen, không biết, vầng trăng đã bị tôi – một người bạn thân thiết, gắn bó của một thời – lãng quên. Rồi một ngày nọ, đèn điện bỗng vụt tắt. Căn phòng trở nên tối om. Theo phản xạ, tôi bèn bật tung cánh cửa sổ để ánh sáng lan vào. Và đập vào mắt tôi là vầng trăng tròn vành vạnh tỏa sáng trên bầu trời đêm. Tôi với trăng, mặt đối mặt, nhìn nhau, thật lâu. Bỗng, trong lòng tôi có cái gì đó rưng rưng, Bao nhiêu ký ức chợt ùa về. Hình ảnh của những cánh đồng bao la, những dòng sông, những hồ bể, những cánh rừng cứ hiện lên trong đầu tôi. Đã bao nhiêu năm qua, trăng vẫn không thay đổi, vẫn tròn vành vạnh như lúc xưa. Chỉ có tôi là đã thay đổi. Tôi đã quá thờ ơ với trăng, đã vô tình quên đi những kỷ niệm đẹp đẽ giữa trăng và tôi. Trăng cứ nhìn tôi, im lặng. Tôi bỗng giật mình. Sự im lặng của trăng cứ như một lời trách móc tôi, oán hận tôi vì sao đã quên đi người bạn tri kỷ. Tôi thật sự hối hận vì đã quên trăng. Đối mặt với người bạn cũ, lòng tôi cứ nghẹn ngào, nước ở khóe mắt cứ muốn trào ra. Và tôi đã hứa, lời hứa thật lòng, khắc sâu trong đầu tôi, là không bao giờ được quên trăng – người bạn ân nghĩa, thủy chung đã gắn bó cùng tôi ở suốt chặng đường chiến đấu gian lao vất vả trong quá khứ. Đóng vai người lính kể lại bài thơ Ánh trăng - Mẫu 5 Sau khi đất nước Việt Nam giải phóng và thống nhất, tôi đã giải ngũ để trở về quê nhà. Sau ba năm sống ở quê, tôi được con trai và con dâu mời lên thành phố sống cùng để các con yên tâm đi làm. Thật tình thì tôi vẫn thích sống ở quê hơn. Bởi vì, ở quê không khí trong lành, tôi có bà con, họ hàng sớm trưa chuyện trò đỡ buồn. Nhưng các con tôi bảo: “Bố ở quê không có ai chăm sóc, chúng con không yên tâm”. Vậy là, tôi không còn lý do nào nữa và đành nghe theo. Cuộc sống nơi thành phố hiện đại, đường phố lúc nào cũng đông đúc, nhộn nhịp nhiều người qua lại và tôi ở trong căn nhà của con trai đầy đủ tiện nghi. Các con trai và con dâu của tôi đều là công chức, viên chức nhà nước nên chẳng thiếu thứ gì. Vừa rời khỏi cuộc sống vất vả, khó khăn của thời cuộc chiến tranh thì đây là cuộc sống đáng mơ ước. Tôi đã tận hưởng tất cả những ngày tháng ngọt ngào của cuộc sống ban tặng khi ở cùng các con tôi. Tôi không còn phải nghĩ ngợi, lo lâu và không còn bị mất ngủ cũng như không còn nghe thấy tiếng pháo ì ầm của chiến tranh mỗi đêm. Tôi tận hưởng ngày này qua tháng khác với những giấc ngủ ngon yêu tĩnh, những bữa ăn đầy đủ dinh dưỡng và dần dần tôi đã nhanh chóng quên đi mọi khổ nhọc trước kia. Tôi tự động viên bản thân: “Giờ nhớ lại để làm gì? dù sao chiến tranh cũng đã qua đi, vết thương xưa cũng đã lành lại rồi” Cuộc sống cứ thế trôi đi, Tôi tưởng chừng như đã mãi mãi quên đi tất cả, mãi mãi sống với đời sống hiện tại đầy đủ tiện nghi như thế này. Tưởng như ánh sáng hào nhoáng của thành phố sẽ giữ mãi chân tôi trong bốn bức tường vôi kín đáo, an toàn nhưng lạnh lẽo. Nhưng đột nhiên trong một đêm nọ, cái ánh trăng của tình nghĩa năm xưa đã đến đánh thức hồn tôi làm cho cuộc sống của tôi bị xáo trộn bởi cơn mộng mơ hão huyền và cả những cảm xúc khó tả. Đó là một đêm thành phố bị cắt điện. Cắt điện ở thành Phố cũng không phải là chuyện lạ và hiếm gặp. Nhưng đêm ấy, khi ánh sáng của những bóng điện bị vụt tắt thì bỗng dưng bóng tối bao phủ lên toàn bộ căn phòng. Tôi vội vàng, mở tung cánh cửa sổ ra để tìm chút gió trời thì bất ngờ, ánh sáng của vầng trăng tràn vào căn phòng. Ánh sáng của vầng trăng chiếu rọi thẳng vào đôi mắt tôi, xuyên qua hồn tôi. Ôi ánh sáng quen thuộc và kì diệu ngày nào đã đến. Nó trải dài một lớp sáng mờ mờ trên nền gạch lấp loáng. Tôi ngẩng đầu nhìn đăm chiêu lên bầu trời cao và rộng lớn thấy thật trong trẻo. Vầng trăng tròn trịa, soi sáng khắp một miền không gian lớn và vô tận. Ánh trăng hiền hòa chiếu sáng khắp nơi và dương như nó soi rọi vào lòng tôi, làm tôi có cảm giác mơn man như có cái gì đó đang xoa dịu khắp cơ thể. Ánh trăng đã làm khơi gợi cho tôi nhớ đến những năm tháng ngày xưa. Ánh trăng ấy đã dõi theo tôi đến suốt cuộc đời này. Từ hồi thuở thiếu niên ở chốn quê nhà, ánh trăng đã đi vào cuộc sống của tôi như người bạn thân tình. Tôi nhớ lại những đêm trăng yên bình trên dòng sông. Vầng trăng rọi xuống dòng sông tạo nên những ánh sáng lấp lóa, huyền ảo. Tôi nhớ đến những đêm trăng cùng tôi tát nước trên ruộng đồng. Ánh trăng vào cứ chập chờn, vỡ rồi lại liền theo từng nhịp cầu đưa. Hay ánh trăng ma quái ở khu nghĩa địa sau làng mà bọn trẻ chúng tôi thường hay chơi trò trốn tìm. Vầng trăng đó gắn gặt vào đời tôi, từ quãng đời thơ ấu cho đến khi tôi lớn lên. Nhiều đêm nằm dưới ánh trăng sáng, nghe tiếng chim kêu hót líu lo mà đắng lòng, đắng dạ bởi đất nước đang trong thời kì chiến tranh. Quê hương bị lũ giặc giày xéo dưới bom đạn, đau thương. Tôi nhìn trăng và trăng cũng nhìn tôi. Cả hai đều im lặng không nói gì nhưng đều thấu hiểu lòng nhau. Tháng sau, tôi quyết định lên đường đi chiến đấu. Trăng cũng dõi theo tôi lên rừng, lên núi. Trải qua bao cuộc chinh chiến từ Bắc vào Nam thì trăng vẫn đi theo tôi, thủy chung và tình nghĩa với tôi. Trăng soi rọi những bước hành quân trong đêm rừng sâu thẳm. Trăng lao vào cuộc chiến đấu với cả những người lính. Trăng xung phong mở lối dẫn đường cho quân ta tiến tới tấn công kẻ thù. Trăng là người đồng chí, đồng đội luôn sát cánh cùng chúng tôi. Nhiều đêm hành quân, giữa rừng sâu hoang vắng, nằm trên võng dù, tôi nhìn ánh trăng trên trời cao bỗng nhớ quê nhà da diết. Ánh trăng hiền hòa giữa trời cao xanh, ánh sáng vằng vặc soi khắp núi rừng. Tôi ước, sau này đánh đuổi được bọn giặc, tôi trở về quê xây dựng lại cuộc sống mới. Cuộc sống nông nghiệp với con trâu, cái cày. Hằng ngày cuốc đất vườn trồng rau xanh, đêm đêm thưởng thức uống trà ấm và ngắm ánh trăng tròn. Với tôi, cuộc sống như thế là đủ thú vui lắm rồi. Ánh trăng chiếu rọi vào giường tôi nằm như đồng cảm và an ủi tôi vậy. Ánh trăng như thấu hiểu lòng tôi, xoa dịu trái tim chất chứa đầy thù hận trong tôi. Tôi thầm hứa với ánh trăng sẽ anh dũng chiến đấu đánh tan quân giặc mang lại đất nước hòa bình. Cuộc sống tươi đẹp đang chờ tôi phía trước, người thân đang ngóng đợi tôi ở quê nhà. Khi nghĩ đến đây, tự dưng nước mắt của tôi tuôn trào. Than ôi! Tôi không ngờ được là khi cuộc chiến tranh kết thúc, lời hứa năm xưa của tôi với ánh trăng đã quên đi từ bao giờ. Ngày chiến thắng trở về, tôi rơi vào trạng thái bị hụt hẫng. Một phần vì quá vui mừng và hạnh phúc. Một phần vì tôi về với cuộc sống thường ngày với những ràng buộc mới. Cuộc sống vật chất đầy đủ tiện nghi làm tôi say mê tận hưởng để bù đắp lại những năm tháng vất vả chiến đấu nơi rừng thiêng, nước độc. Nhiều lúc cận kề cái chết, tưởng như không thể trở về để gặp mặt vợ hiền con thơ. Hằng ngày, tôi làm công việc mới trong thời kì dựng xây đất nước và khắc phục hậu quả chiến tranh khá bận rộn. Hết đi sớm lại về khuya khiến tôi không có thời gian để nghĩ ngợi. Hình bóng quê hương và muôn vàn những kỉ niệm tuy vẫn còn trong trí nhớ của tôi nhưng từ lâu nó đã bị khép lại, giấu kín. Ở nơi đô thị, phố xá phồn hoa, diễm lệ, ánh đèn màu lấp loáng soi rọi khắp mặt đất và bầu trời. Vầng trăng tình năm xưa vẫn cứ từng đêm đi qua bầu trời nhưng dường tôi không để ý nên không hề hay biết. Tôi ngửa mặt lên bầu trời nhìn vầng trăng. Trăng nay vẫn thế, vẫn tròn trịa và tỏa sáng khắp nơi. Và lúc này, hình như có cái gì đó đang rưng rưng. Trong đầu tôi, những hình ảnh về quê hương, cánh đồng, ngọn núi, con sông, vv… bỗng hiện lên và thi nhau ùa về. Bất chợt, tôi xúc động và bật khóc. Những giọt nước mắt cứ thế lăn dài trên má. Đó là nước mắt xót xa của những ngày tháng năm xưa. Giọt nước mắt hối hận khi nhận ra mình bấy lâu đã hững hờ với quá khứ nghĩa tình, hững hờ với vầng trăng thủy chung. Dù chúng tôi, những người lính từ lâu đã không hề nhớ tới. Nhưng vầng trăng trải qua bao thời gian nó vẫn không thay đổi. Trăng vẫn luôn bên cạnh và dõi theo chúng tôi. Trăng thì nghĩa tình thủy chung còn chúng tôi lại vô tình đối xử lạnh nhạt với nó. Ánh trăng lặng im không nói gì. Đó chính là sự im lặng nghiêm khắc nhắc nhở tôi về quá khứ đầy đau thương nhưng nghĩa tình. Trăng không giận dữ, nghiêm nghị nhưng lại bao dung càng khiến tôi thêm đau lòng. Tôi nhận ra bấy lâu nay mình đã hững hờ với quá khứ, hững hờ với nỗi đau thương mà dân tộc Việt Nam vừa trải qua. Nhiều lần, tôi đã tự ngụy biện rằng mình hoàn thành tốt công việc trong hiện tại là đã có công với đất nước rồi. Và những gì mình nhận được hôm nay là hoàn toàn xứng đáng do công sức của mình bỏ ra. Nhưng kì thực, đó là một cuộc sống ích kỷ và vô tâm. Biết bao con người vẫn đang âm thầm hy sinh bởi bom đạn của kẻ thù vẫn còn sót lại, bởi đói khổ kéo dài triền miên. Nỗi đau thương vẫn còn âm ỉ trong lòng dân tộc Việt Nam. Kẻ thù đã rời đi rồi nhưng hậu quả của chúng gây ra vẫn để lại gây tổn thương cho nhiều người. Biết bao gia đình, bao con người chưa tìm thấy được hạnh phúc. Cả dân tộc đang gượng mình cố gắng vượt qua thì tôi lại ngập ngụa với sướng vui của cuộc sống đầy đủ vật chất. Càng suy nghĩ bao nhiêu thì tôi lại càng cảm thấy mình có lỗi bấy nhiêu. Cảm ơn ánh trăng đã soi sáng, giúp tôi thấu hiểu và nhìn nhận lại bản thân mình. Tôi phải làm gì đó để xứng đáng với dân tộc. Tôi cần phải làm gì đó để bù đắp lại những lỗi lầm của mình. Tôi phải sống thật xứng đáng với tinh thần của người lính trong thời đại đổi mới, tiếp tục tiên phong trong những nhiệm vụ khó khăn của dân tộc. Tôi nhất định phải biết trân trọng quá khứ để sống tốt và xứng đáng với những gì mình nhận được. Cuộc sống này không chỉ dành riêng cho tôi mà còn dành cho cả dân tộc Việt Nam, dành cho những người anh hùng đã cống hiến hết mình vì nền độc độc, tự do của Tổ Quốc. Đóng vai người lính kể lại bài thơ Ánh trăng - Mẫu 6 Đã bao giờ bạn tự hỏi tri âm tri kỉ được định nghĩa như nào chưa. Tri âm tri kỉ nghe có gì đó rất lớn lao, xa xăm nhưng mấy ai biết được rằng đó đôi khi lại là những thứ thân thuộc, giản đơn xung quanh cuộc sống này. Với tôi có lẽ là như vậy. Nếu tôi nói tri âm tri kỉ của tôi là ánh trăng thì bạn có tin không? Ánh trăng đơn sơ, ấy liệu có gì để con người ta gắn bó nhỉ? Và đó là một câu chuyện dài. Tôi được sinh ra và lớn lên bên những cánh đồng quê hương ngào ngạt hương lúa, bên tiếng ve của những buổi trưa hè oi ả, tiếng ếch nhái râm ran mỗi khi màn đêm buông xuống lả lơi. Lũy tre làng với con đê, dòng sông đỏ nặng phù sa đã bồi đắp nên tuổi thơ tươi đẹp trong tôi. Cứ ngỡ rằng những năm tháng thanh bình ấy sẽ kéo dài mãi mãi nhưng không, chiến tranh nổ ra, quê hương bị tàn phá ác liệt. Cảnh vật, con người bị tàn phá ác liệt. Nghe theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ Quốc tôi lên đường nhập ngũ. Thay vào việc thả hồn bên những cánh đồng bát ngát tôi quen dần với việc hành quân trong những cánh rừng rậm rạp, u tối, hiểm nguy rình rập, quen với tiếng thét gào gầm gữ của thiên nhiên hoang dại. Nhưng trong tôi lúc nào cũng chan chứa một nỗi nhớ da diết, khôn nguôi về quê hương. Để rồi những đêm dài, tranh thủ phút nghỉ ngơi hiếm hoi tôi lại gửi hết tâm tình vào ánh trăng. Ánh trăng sáng soi tỏ không gian như chăng cũng soi tỏ lòng tôi. Chẳng biết tự bao giờ trăng trở thành người bạn tri âm của tôi, đồng hành cùng tôi, sẻ chia tâm sự với nỗi lòng tôi. Biết bao tâm tư, bao nước mắt, và cả bao kỳ vọng và nhớ nhung tôi đều gửi gắm qua ánh trăng. Vầng trăng tình nghĩa ấy theo chân tôi, đồng hành cùng tôi suốt những năm tháng mưa bom bão đạn nơi chiến trường ác liệt. Trăng tình nghĩa nâng bước tôi giữa thiên nhiên trơ trọi, giữa hiểm nguy chiến tranh. Trăng giản dị, mộc mạc nhưng lại tình nghĩa và ấm áp vô ngàn. Khi chiến tranh kết thúc, tôi may mắn cùng các anh em đồng đội được trở về đoàn tụ với gia đình. Tôi được Nhà nước cấp cho một ngôi nhà nhỏ nơi thành thị đông đúc. Cuộc sống bộn bề, các tòa nhà cao ngất, phố thị đèn kết hoa khiến ánh trăng trở nên xa vời với tôi. Ánh trăng giờ đây đã bị lu mờ bởi ánh điện của cuộc sống xa hoa, ồn ã. Lâu dần tôi bỗng quên mất sự hiện diện người bạn tình năm ấy của mình. Thương biết mấy rồi cũng hóa người dưng, ánh trăng đi qua tôi như người xa lạ, không quen, chẳng biết và cũng chẳng đậm đà như trước. Tạo hóa luôn đặt con người ta vào những khoảnh khắc thật trớ trêu. Rồi một ngày nọ, cũng có lúc phố thị rời xa sự sáng lóa. Căn phòng cao tầng bị mất điện. Theo phản xạ, tôi bật tung cửa sổ kiếm tìm cho mình chút nguồn ánh sáng thay thế. Bồng tôi gặp lại người xưa – ánh trăng. Mặt đối mặt, có chút gì đó rưng rưng đến lạ kỳ. Bao kỉ niệm, bao tình cảm trước kia bỗng ùa về trong tâm trí tôi, ồ ạt, nồng nàn và đắm say. Nhưng càng đắm say tôi lại càng thấy bẽ bàng. Đối diện với trăng tôi thấy bản thân thật đáng trách, đáng hận. Bao năm qua đi trăng vẫn thế, vẫn sáng vẫn tròn vành vạnh, vẫn nghĩa tình đậm sâu. Còn tôi thì sao, lòng tôi liệu còn coi trăng như đã từng. Trăng im lặng, tôi cũng im lặng nhưng trong lòng lại biết bao dậy sóng. Những cơn sóng lòng tự trách, áy náy dày vò, dạt dào trong tâm can. Tôi không nén nổi những giọt nước mắt trào dâng nơi khóe mắt. Tôi khóc để oán trách bản thân, khóc vì nhớ trăng thật nhiều, khóc vì những gì đã qua, những gì đã để vụt mất và khóc cho những khoảnh khắc ở hiện tại. Gặp lại người cũ không đáng sợ, cái đáng sợ nhất là giây phút gặp gỡ ấy lòng ta lại chông chênh, chới với, dằn vặt. Vật chất có thể tạo ra nhưng tình cảm lại rất khó để xây đắp. Sự thủy chung, son sắt và cả lòng chân thành sẽ mang lại cho ta những tình cảm quý báu. Trăng nói chung, con người nói riêng luôn là những thứ đáng để ta trân trọng và khắc ghi. Đóng vai người lính kể lại bài thơ Ánh trăng - Mẫu 7 Quê hương là mảnh đất linh thiêng, huyền diệu, đẹp đẽ nhất trong tâm hồn mỗi con người. Tôi sinh ra và lớn lên ở một vùng quê yên bình, xinh đẹp. Tuổi thơ tôi là những tháng ngày thỏa sức đắm mình trong gió mát, bên những cánh đồng bát ngát thẳng cánh cò bay, những dòng sông hiền hòa chở nặng phù sa... Ký ức tuổi thơ tôi là trọn vẹn những kỷ niệm tuyệt vời đáng nhớ. Chiến tranh bất ngờ ập đến, nghe theo tiếng gọi của Tổ quốc và bảo vệ quê hương, tôi cùng các bạn lên đường nhập ngũ. Cuộc sống gắn bó với núi rừng hoang vu sặc mùi đạn bom khiến lòng tôi trào dâng nỗi nhớ nhà da diết, khắc khoải. Xóm làng, gia đình cùng những cảnh vật quen thuộc cứ ẩn hiện trong tâm trí. Những đêm dài đứng gác, tôi cùng đồng đội hay ngẩng đầu lên cao, nương theo ánh trăng sáng vằng vặc trên đầu tâm sự. Có lần anh hỏi tôi: - Cậu có nhớ quê nhà không? Mỗi lần thấy trăng, tôi lại nhớ những ngày êm đềm ở quê hương, không biết đến khi nào mới được quay lại thời gian đó. Tôi không nhớ mình đã đáp lại anh như thế nào chỉ biết rằng khoảnh khắc đó, hồi ức tôi gìn giữ bấy lâu như tan vỡ ra. Những năm tháng tuổi thơ xưa kia, tôi sống cùng sông rừng biển cả, hòa mình trong thiên nhiên mát lành và hồn nhiên vô lo vô nghĩ. Những năm tháng chiến tranh gian khổ này, tôi vẫn hòa mình giữa thiên nhiên núi rừng chiến khu, cảnh vật ít nhiều có sự thay đổi, thân phận địa vị cũng khác. Thế nhưng mỗi lần ngẩng đầu lên, vầng trăng tình nghĩa vẫn yên lặng ở đó. Nó giống như dõi theo hành trình trưởng thành của tôi, một bước không rời. Tôi cứ ngỡ bản thân sẽ không bao giờ quên vầng trăng ấy, vậy mà... Chiến tranh kết thúc, hai miền Nam - Bắc của Tổ quốc được thống nhất, độc lập và tự do. Tôi may mắn sống sót nên rời đơn vị và trở về quê nhà, tạm biệt những tháng ngày đạn bom máu lửa để sống một cuộc sống bình thường, an ổn. Năm tháng xoay vần, con trai tôi ngỏ ý đưa bố lên thành thị sinh sống. Sự lo lắng của con khiến tôi chẳng nỡ chối từ nên đành rời miền quê thân thương, chuyển về thành phố xa hoa rực rỡ ánh đèn. Căn nhà tôi sinh sống đầy đủ tiện nghi, nằm ở trung tâm thành phố đông đúc, nhộn nhịp, người qua kẻ lại tấp nập ngược xuôi. Không còn âu lo, nghĩ ngợi về ngày mai còn mất, không còn mất ngủ cả đêm hay ầm ầm bên tai tiếng mưa bom bão đạn, tôi thong thả thư giãn trong những giấc ngủ bình yên, những bữa ăn đầy đủ ngon miệng. Gian khổ khó nhọc trước kia bỗng chốc phai mờ trong tâm trí. Những ký ức cùng vầng trăng tình nghĩa cũng vô tình bị lãng quên từ bao giờ chẳng hay. Ngày qua ngày, tháng qua tháng, những tưởng rằng bản thân đã mãi mãi quên đi quá khứ, quen sống với những hiện đại xa hoa, đầy đủ tiện nghi. Tưởng chừng ánh sáng rực rỡ nơi thành thị sẽ mãi giữ chân tôi trong bốn bức tường sơn vôi kín đáo, an toàn nhưng có phần cô quạnh thì một đêm kia, ánh sáng vầng trăng đã đột nhiên ghé tới, đánh thức tâm hồn và gợi lên nhiều cảm xúc khó tả. Trên cao, trăng vẫn tròn vành vạnh, tỏa ánh sáng bàng bạc bao phủ khắp muôn nơi. Song có thứ gì đó chợt rưng rưng, nghẹn ngào. Hình ảnh quê hương với con sông, cánh đồng,... bất chợt ùa về trong tâm trí tôi. Niềm xúc động không thể gọi thành tên khiến tôi bật khóc thành tiếng, những giọt nước mắt xót xa không ngăn được, lăn dài trên má. Tôi hối hận bừng tỉnh, nhận ra bấy lâu bản thân đã thờ ơ hững hờ với quá khứ tình nghĩa, với vầng trăng chung thủy. Tôi đã đổi thay nhưng trăng vẫn vẹn nguyên, nghĩa tình, vẫn luôn bên cạnh và dõi theo chúng tôi. Lòng tôi bỗng dấy lên bao nghĩ suy cùng hoài niệm, sống như tôi khi ấy, lãng quên quá khứ nhiều gian lao là sống vô tâm và ích kỷ. Biết bao người vẫn âm thầm lặng lẽ với bom đạn kẻ thù còn sót lại, rải rác khắp mọi miền Tổ quốc, biết bao người vẫn oằn mình trong đói khổ triền miên. Đau thương mất mát vẫn âm ỉ dày xéo trong lòng dân tộc bởi lẽ chiến tranh lùi xa nhưng dấu vết nó in hằn trên dáng hình dân tộc vẫn còn. Khi cả nhân dân đang gắng gượng vượt lên quá khứ thì tôi lại vui vẻ tận hưởng cuộc sống đầy đủ vật chất. Nếu không có ánh trăng soi sáng hôm nay, tôi không biết đến chừng nào bản thân mới thức tỉnh và nhìn lại mình. Cuộc sống độc lập tự do hôm nay không dành cho riêng ai mà thuộc về cả dân tộc Việt Nam, là kết quả bao anh hùng dân tộc đã phải đánh đổi bằng máu xương và tính mạng. Tôi cảm thấy phải làm gì đó xứng đáng với Tổ quốc, để bù đắp những ích kỉ vô tâm và sống cho xứng đáng với tinh thần người lính thời đại mới. Quá khứ dù đau thương nhưng chính là hồi ức quý giá, hãy trân trọng nó để sống tốt hơn, sống cho xứng những gì mình nhận đc

1 like nhahihi

4 tháng 10 2021

Tham khảo:

Tôi tên thật là Vũ Thị Thiết, quê ở Nam Xương, được mọi người yêu quý mà gọi cho cái tên Vũ Nương. Sinh ra trong gia đình có hoàn cảnh nghèo khó, tuy vậy nhưng lại được cha mẹ dạy bảo ân cần từ nhỏ, hiểu được lễ nghĩa, bởi lẽ đó mà mọi người trong làng hay khen tôi có tính tình nết na và thùy mị. Lại được ơn trời cho thêm tư dung tốt đẹp. Nên đến tuổi mười tám, một độ tuổi mà người đời xem là độ tuổi rực rỡ nhất của người con gái, tôi được Trương Sinh, là một chàng trai trong làng mến mộ chắc có lẽ là vì dung hạnh nên đã xin với mẹ đem trăm lạng vàng mà cưới tôi về. Ngày ấy, tôi vốn biết chồng mình có tính đa nghi, hay ghen, đối với tôi lại phòng ngừa quá sức, nên tôi hết sức giữ gìn khuôn phép, chưa từng để lần nào vợ chồng phải dẫn đến thất hòa.

Cuộc sống bình yên chẳng được bao lâu thì giặc Chiêm bỗng xâm phạm bờ cõi đất nước, chồng tôi tuy là con nhà hào phú nhưng vì ít học nên phải đi lính loạt đầu. Chiến tranh chắc chắn sẽ có chia ly, có mất mát và cả đau thương, vì lẽ đó mà tôi và mẹ chồng đã buồn biết bao nhiêu, buổi tiễn đưa đến, mẹ dặn dò chàng phải biết tự chăm sóc bản thân, giữ gìn sức khỏe và cẩn thận, bởi trên chiến trường đao kiếm nào có mắt. Còn tôi thì không biết gì hơn, chỉ rót chén rượu đầy tiễn chồng, mong chồng sẽ trở về được bình yên, chẳng mong tước vị phải cao sang quyền quý. Một buổi đưa tiễn đầy xúc động, mắt ai cũng nhòe đi bởi giọt lệ, tiệc tiễn vừa tàn, áo chàng đành rứt. Ngước mắt cảnh vật vẫn còn như cũ, mà lòng người đã nhuộm mối tình muôn dặm quan san.

Sau khi chồng đi được khoản mươi ngày thì tôi sinh hạ một đứa con trai đặt tên là Đản rồi một mình nuôi dạy và chăm sóc con, cũng nhờ có bé Đản nên tôi cũng vơi đi được phần nào nỗi cô đơn nhớ mong chồng trong lòng. Ngày qua tháng lại, thoắt cái đã nửa năm trôi qua, nỗi buồn trong lòng vẫn chẳng thể nào vơi bớt đi. Mẹ chồng tôi lại vì quá nhớ thương con trai mà ngã bệnh, tôi cố hết sức thuốc thang lễ bái thần phật và lấy lời ngọt ngào khuyên lơn mong mẹ ăn được miếng cơm, miếng cháo để mau chóng khỏe lại. Song vì tuổi già bệnh nặng mà mẹ đã không qua nổi, trước lúc mất bà còn trăn trối rằng:

“Sau này, trời xét lòng thành, ban cho phúc đức, giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn, xanh kia quyết chẳng phụ con, cũng như con đã chẳng phụ mẹ”

Tôi đau lòng thương xót, lo ma chay tế lễ, lo liệu như đối với cha mẹ đẻ của mình. Kể từ đó chỉ còn có tôi cùng bé Đản, nhớ thương chồng và muốn bù đắp cho đứa con bé nhỏ không có cha bên cạnh, tôi thường trỏ bóng mình trên tường vào mỗi tối rồi bảo với con là “cha Đản lại đến kia kìa!”. Bé Đản còn nhỏ nên ngây ngô tưởng thật, thường vui đùa cùng chiếc bóng.

Qua năm sau, giặc tan đất nước được yên bình, việc quân kết thúc. Chồng tôi may mắn trở về bình yên như mong đợi, hạnh phúc như vỡ òa trong một khoảnh khắc, tuy vậy khi biết được tin mẹ mất, chồng tôi đã rất buồn, chàng hỏi mộ mẹ rồi bế đứa con bé nhỏ đi thăm. Chẳng biết trên đường đã xảy ra chuyện gì nhưng khi về tâm trạng của chàng lại xấu vô cùng, sau đó chàng nặng lời với tôi, trách tôi sao hư thân mất nết, làm chuyện trái đạo lý... Tôi đến cùng không hiểu rõ nguyên nhân vì sao, thấy chàng như vậy chỉ biết khóc và tủi thân. Dùng hết lời để giải thích, hỏi chàng chuyện kia là ai nói nhưng chàng lại giấu mà không trả lời. Tôi vốn biết thân phận mình là con kẻ khó, nương tựa được nhà giàu, chưa từng có suy nghĩ trái đạo lý như vậy. Nhưng nay điều đâu bay buộc, tai họa ập đến. Có lẽ tất cả những lời giải thích của tôi đối với chàng lại chẳng có một lời đáng tin, tuy vậy họ hàng làng xóm bênh vực tôi chàng cũng không nghe. Khiến tôi chẳng thể thanh minh thêm được một lời nào.

Chàng vì nhất thời ghen tuông mà nóng vội đánh đuổi tôi ra khỏi nhà. Danh dự của bản thân bị bôi nhọ, giấc mơ một gia đình hạnh phúc cũng từ đây tan vỡ, tuyệt vọng đến tột cùng tôi chỉ biết tìm đến con đường tự vẫn để chứng minh mình trong sạch. Tắm rửa chay sạch, tôi ra bến Hoàng Giang ngửa mặt lên trời mà than mong trời chứng giám cho tấm lòng thủy chung của bản thân, xong gieo mình xuống dòng nước lạnh lẽo. Ắt có lẽ vì thấu được nỗi oan của tôi mà thương tôi vô tội, các nàng tiên trong cung nước đã rẽ một đường nước cho tôi thoát chết, nếu không thì đã vùi vào bụng cá cả rồi. Nơi đây là chốn cung điện của Linh Phi, vợ vua biển Nam Hải, người vô cùng nhân hậu và tốt bụng. Một hôm Linh Phi có tổ chức một yến tiệc để thiết đãi ân nhân của mình thuở trước, lại càng không ngờ đến đó là Phan Lang – người cùng làng với tôi lúc tôi còn ở trần thế. Gặp lại được nhau, chúng tôi đã nhắc lại vài chuyện cũ, cũng nhờ vì vậy mà tôi biết được chồng mình đã thấu rõ được nỗi oan của bản thân, bởi vì lúc chàng bế đứa con bé bỏng ngồi bên ngọn đèn dầu, thì con trỏ bóng nhận cha. Cuộc đời vốn đã vô tình đến thế, có những chuyện xảy ra lại khiến ta không ngờ đến nhất.

Nghe Phan Lang kể, tôi cũng thấy xót xa vì cảnh nhà tiêu điều, chồng con không ai chăm sóc. Cảm thấy bản thân sao lại hồ đồ đến vậy, chưa gì đã vội vàng kết thúc sinh mệnh của mình. Phan Lang khuyên tôi nên trở về, ban đầu tôi nghĩ bản thân nào còn mặt mũi để gặp lại người xưa, nhưng nghĩ đi nghĩ lại tôi cũng muốn quay về để nói lời từ biệt, vì vậy lúc Phan Lang trở về trần thế, tôi đã gửi nhờ một chiếc hoa vàng mà dặn: “Nhờ nói hộ với chàng Trương, nếu còn nhớ chút tình xưa nghĩa cũ, xin lập một đàn giải oan ở bến sông, đốt cây đèn thần chiếu xuống nước, tôi sẽ trở về”

Mấy ngày hôm sau Trương Sinh quả thật có lập một đàn giải oan ba ngày ba đêm ở bến Hoàng Giang, cảm nhận được sự chân thành và hối lỗi của chồng tôi, Linh Phi có ý muốn giúp đỡ tôi quay trở về. Cho nên đến ngày thứ ba, tôi lúc ẩn lúc hiện cùng năm mươi chiếc kiệu hoa, võng lọng mà Linh Phi ban cho. Tôi vẫn ở giữa sông mà nói vọng vào bờ lời tạ từ với chồng con rồi từ từ biến mất mãi mãi. Bởi lẽ nơi chốn trần gian nào có chuyện người chết sống lại, cũng một phần vì tôi muốn ở lại để báo đáp ơn đức của Linh Phi, đã thề sống chết cũng không bỏ. Sau đó tôi liền trở về thủy cung, không một lần trở lại.

Câu chuyện của gia đình tôi là một câu chuyện buồn, chẳng có một hạnh phúc trọn vẹn. Cũng bởi xã hội xưa khiến phụ nữ phải chịu nhiều sự phán xét, không có tiếng nói trong cuộc đời đầy gian khổ của bản thân. Mong là từ câu chuyện của tôi, mọi người sẽ rút ra được kinh nghiệm đó là hạnh phúc của gia đình phải cần cả hai vợ chồng cùng vun đắp mới có thể dài lâu, đừng vì cảm xúc hay cái tôi của bản thân quá lớn mà ích kỷ làm trong tình cảnh của gia đình trở nên tan vỡ. Bởi vì hạnh phúc chính là được xây dựng trên cơ sở tin yêu và tôn trọng lẫn nhau.

2 tháng 1 2022

Đối với tôi hạnh phúc lớn nhất cả cuộc đời này là có được bé Thu - đứa con gái đầu lòng của tôi. Dù đã xa con gần tám năm nhưng không ngày nào là tôi không nghĩ đến cái ngày gia đình được đoàn tụ. Và cuối cùng cơ hội cũng đã đến với tôi khi tôi được về phép trong ba ngày lòng tôi vui sướng khôn tả nghĩ đến cái cảnh đứa con gái yêu quí của mình chạy lại ôm tôi vào lòng và được nó gọi một tiếng ba thì hạnh phúc biết bao.

Nhưng tất cả mọi thứ đều trái ngược với cái mơ ước nhỏ nhoi ấy, đứa con gái mà tôi hằng mong nhớ lại xem tôi như một người xa lạ, xem người cha ruột này như một người dưng qua đường không hề quen biết vì trên má tôi có một vết thẹo dài không giống với người trong ảnh chụp cùng với má nó.

Ờ thì, có lẽ nó cư xử như vậy là đúng thật vì khi mà tôi lên đường đi chiến đấu khi nó chưa tròn 1 tuổi nữa mà, còn quá nhỏ để ghi khắc hình ảnh của người cha này và cũng chưa đủ lớn để nhận biết được sự tàn khốc của chiến tranh mang lại nên lúc nào đối với tôi nó cũng nói trổng, mặc cho tôi có làm gì, có nói ra sau thì mọi thứ đều như công dã tràng.

15 tháng 3 2022

Tôi là một cậu bé rất ham chơi và nghịch ngợm .. Một lần ,do mẹ tôi mắng tôi ,nên tôi đã giận mẹ và bỏ nhà ra đi .. Tôi là cà khắp mọi nơi ,tìm đủ thứ để chơi .. Tôi đâu biết rằng mẹ của tôi ở nhà đã đau buồn và mong tôi trở về như thế nào .. Càng bỏ nhà ra đi ,tôi càng nhớ mẹ ,bị rét và bị lũ bạn đập ,tôi vội vã quay về ..Lúc tôi về nhà thì không thấy mẹ ở đâu ,tôi la hét tìm mẹ ở mọi nơi nhưng không thấy .. Tôi ngồi xuống cạnh cây vú sữa mà khóc .. Đột nhiên cây vú sữa run rẩy ,nở rộ hoa và quả ,các cành cây chỉa xuống như muốn oomt ôi vào lòng .. Tôi vội lấy ăn một qua vú sữa.. Vừa ngọt vừa mát như dòng sữa mẹ .. Lúc này tôi đã hiểu ra mọi chuyện nên rất ân hận và cây vú sữa dường như cũng hiểu được điều đó nên các cành chỉa xuống để ôm tôivào lòng .

20 tháng 3 2024

hay

 

 

19 tháng 3 2023

đóng vai nv người anh trong câu chuyện cây khế

Cha mẹ mất sớm, tôi sống cùng với em trai. Hai anh em tôi chăm chỉ làm ăn. Rồi tôi và em trai cũng đến tuổi lấy vợ. Từ đó, tình cảm giữa hai chúng tôi không còn mặn mà như xưa nữa.

Hai vợ chồng tôi tính đến chuyện ở riêng cho hai vợ chồng người em. Tôi bàn với vợ, lấy tài sản và chia cho em trai căn nhà tranh lụp xụp trước nhà có một cây khế. Tuy vậy, hai vợ chồng cậu em không phàn nàn một lời, vẫn chịu khó làm ăn. Cho đến một hôm nghe người ta nói chuyện hiện nay vợ chồng người em đã rất giàu có thì tôi lấy làm tò mò liền sang gặp gỡ hỏi thăm. Em trai tôi thật thà nên đã kể lại mọi chuyện cho tôi nghe.

Hằng ngày, vợ chồng nó vẫn chăm sóc cho cây khế. Đến mùa, cây khế ra hoa kết trái và thu hoạch, em tôi mang ra chợ bán. Bỗng một hôm, có con chim lạ bay đến ăn khế của em. Nó ăn rất nhiều khế trên cây, ăn những quả thơm ngon nhất, cứ như thế suốt gần tháng trời.

Em tôi liền nói với chim, thì nó trả lời thế này:

- Ăn một quả, trả cục vàng, may túi ba gang, mang đi mà đựng.
Vợ chồng nó làm theo lời chim. Sáng hôm sau, như đã hẹn chim bay đến đưa em tôi đi lấy vàng. Đặt chân lên đảo, có biết bao thứ đá quý, bạc vàng. Nhưng đứa em dại dột của tôi chỉ lấy một ít vàng và kim cương rồi ra về. Từ đấy, cuộc sống của nó trở nên khá giả.

Biết rõ câu chuyện, tôi bàn mưu cùng vợ, gạ đổi hết tài sản của mình để lấy túp lều tranh và cây khế. Thế là từ đó, tôi chỉ có một việc là trông mong chim lạ bay đến ăn khế. Lâu dần, con chim cũng xuất hiện. Không thể kiên nhẫn ợi lâu hơn nữa, khi chim thần vừa ăn được vài quả tôi đã chạy ra hỏi như những gì em tôi đã nói. Và tôi cũng được chim lạ trả lời y hệt. Chỉ chờ có thế, vợ chồng tôi hí hửng, vội vàng may túi. Nhưng không phải túi ba gang như cậu em ngốc nghếch, tôi may hẳn một túi sáu gang.

Sáng hôm sau, chim thần cũng bay đến đưa tôi đến đảo vàng. Vừa đặt chân lên đảo tôi đã hoa mắt trước bao nhiêu vàng và đá quý. Càng vào sâu bên trong, tôi càng choáng ngợp. Quên hết mọi mệt nhọc, tôi ra sức nhét thật nhiều vàng vào cái túi sáu gang đã chuẩn bị. Dường như thấy vẫn chưa đủ, tôi còn cố nhét thêm vào ông tay áo và ống quần, rồi buộc chặt lại. Chim thần đợi tôi lâu quá nên thúc giục ra về. Nằm trên lưng chim, tôi vui mừng, tưởng tượng về cuộc sống giàu sang sắp tới của mình. Đang mơ màng sung sướng, bỗng một cơn gió thổi mạnh. Thì ra chim thần đã bay tới biển. Rồi bỗng nhiên, chim thần đâm bổ xuống biển. Sóng cuốn hết tất cả vàng bạc tôi vừa lấy được. Tôi kêu cứu, nhưng chim thần đã bay lên trời. Tôi vùng vẫy giữa nước biển mênh mông, hối hận vì lòng tham của mình.

19 tháng 3 2023
Đóng vai nhân vật - Lí Thông

Tôi là Lý Thông, một người chuyên bán rượu. Trong một lần đi bán rượu ở xã Cao Bình, ngồi nghỉ chân tại một quán nước gần gốc đa, tôi thấy một người vác về một đống củi to. Tôi nghĩ bụng đây chắc chắn là một người có sức khỏe phi thường, liền lấn lá làm quen. Cậu ta tên là Thạch Sanh, từ nhỏ đã mồ côi cha mẹ, của cải chẳng có gì ngoài chiếc búa cha để lại. Tôi biết tên này thật thà, dễ lợi dụng nên đã quyết định kết nghĩa anh em với Thạch Sanh, rồi bảo cậu ta về ở cùng với mình và mẹ già.

Từ ngày có Thạch Sanh, mẹ con tôi đỡ vất vả đi nhiều. Bấy giờ, trong vùng có một con chằn tinh rất hung ác, phép thuật vô song, thường xuyên bắt người ăn thịt. Để yên ổn, dân làng tình nguyện nộp người cho nó để nó ăn thịt, không quấy phá dân làng nữa. Lần đó, đến lượt tôi, tôi bèn nghĩ ra cách là nhờ Thạch Sanh đi thay mình. Tối đó, tôi mời Thạch Sanh ăn uống no say, rồi cất lời nhờ cậy đi trông miếu thay. Thạch Sanh không nghĩ ngợi nhiều liền nhận lời ngay. Tôi và mẹ vui mừng lắm.

Đêm hôm đó, tôi đang ngủ say thì bỗng có tiếng gọi của Thạch Sanh. Mẹ con tôi nghĩ Thạch Sanh về đòi mạng, van xin khẩn thiết. Thạch Sanh mới kể lại chuyện giết chằn tinh, bây giờ mẹ con tôi mới an tâm. Tôi còn nghĩ ra một kế lừa Thạch Sanh rằng đó là con vật nhà vua nuôi, không giết được và bảo Thạch Sanh về lại gốc đa cũ đi. Thạch Sạch tin lời ngay. Sau khi lừa được Thạch Sanh, tôi liền mang đầu chằn tinh lên quan lĩnh thưởng. Tôi được vua khen ngợi và phong làm đô đốc.

Năm đó, nhà vua có một người con gái đến tuổi lấy chồng nhưng chưa chọn được ai thích hợp. Vua cha bèn nghĩ ra cách ném cầu kén rể, ai bắt được cầu sẽ được làm phò mã. Nhưng khi công chúa vừa lên lầu chuẩn bị ném cầu thì bị một con đại bàng cắp đi mất. Tôi được vua cha giao cho nhiệm vụ đi tìm công chúa. Tình cờ, tôi gặp được Thạch Sanh. Tôi kể cho cậu ta nghe về việc đang đi tìm công chúa. Thạch Sanh nói rằng mình biết hang của đại bàng và đề nghị được đi cùng. Cậu ta dẫn tôi cùng quân lính đến hang của đại bàng. Tôi buộc dây vào thắt lưng hắn, dặn rằng khi vào cứu được công chúa thì hãy lấy dây để kéo công chua lên, sau đó sẽ thả dây xuống để cứu em. Khi Thạch Sanh cứu được công chúa, tôi sai người lấp cửa hang lại.

   
13 tháng 9 2019

Đã hơn một năm trôi qua, kể từ khi chàng Trương lập đàn giải oan, tôi hiện về nói lời tạ từ rồi ra đi mãi mãi. Tôi cũng đã bình tâm trở lại mà chấp nhận cuộc sống dưới thủy cung với Linh Phi và các nàng tiên trong cung nước. Tuy nhiên trong sâu thẳm trái tim tôi vẫn không nguôi nhớ trần thế, nhớ quê hương, nhớ cuộc sống gia đình hạnh phúc trước kia, đặc biệt là con trai. Những kỉ niệm ấy vẫn luôn hiện về trong tâm trí tôi.

Tôi là Vũ Thị Thiết quê ở Nam Xương, tuy xuất thân trong gia đình nghèo khó nhưng từ nhỏ đã được cha mẹ dạy bảo đến nơi đến chốn nên hiểu mọi lễ nghĩa, biết cư xử đúng mực. Đến tuổi 18 trong làng đã có vài người đánh tiếng trống hỏi tôi, nhưng vì cha mẹ của tôi không muốn tôi vất vả nên đã nhận 100 lạng vàng rồi gả tôi cho Trương Sinh, con một nhà giàu trong làng, thế là tôi được yên bề gia thất nhưng biết chồng có tính đa nghi, hay ghen, tuy là con nhà giàu nhưng đa nghi ít học nên tôi luôn giữ gìn khuôn phép không từng lúc nào để vợ chồng thất hòa.

Cuộc đoàn viên chưa được bao lâu thì đất nước có giặc. Chồng tôi tuy là con nhà giàu nhưng vì ít học nên phải đi lính loạt đầu. Tôi và mẹ chồng tôi đều rất buồn, trong buổi tiễn đưa mẹ có dặn dò, tôi cũng nói mong chồng ra trận giữ gìn để trở về được bình yên chứ không cần quan cao tước lớn. Chàng nghe vậy xúc động không nói lên lời dứt áo ra đi. Sau khi chồng đi được mươi ngày thì tôi sinh hạ một đứa con trai đặt tên là Đản rồi một mình vừa chăm sóc con, một lòng thủy chung chờ đợi mong chồng sớm về đoàn tụ.

Nhưng mẹ chồng tôi vì thương nhớ con trai mà sinh bệnh. Tôi hết sức thuốc thang, lễ bái thần phật rồi khuyên như mong mẹ chóng khỏe. Song vì tuổi già bệnh nặng, vận trời khó tránh nên mẹ chồng tôi qua đời. Tước khi mất bà nói: "Sau này trời xét lòng lành ban cho phúc đức, giống dòng tươi tốt, con cháu đầy đàn, xanh kia quyết chẳng phụ con cũng như con đã chẳng phụ mẹ". Tôi hết lòng thương xót, lo ma chay tế lễ như với cha mẹ đẻ của mình.

Qua năm sau, giặc tan, chồng tôi trở về bình yên đúng như mong đợi, khi buồn vì mẹ không còn nhưng tôi hy vọng gia đình sẽ hạnh phúc như xưa. Nhưng bé Đản vì chưa gặp cha bao giờ nên không chịu nhận dù tôi đã hết sức dỗ dành, có lẽ là còn trẻ con nên ương bướng. Ngay hôm sau, chàng bế con ra thăm mộ mẹ, tôi ở nhà chuẩn bị mâm cơm vừa để cúng tổ tiên tạ ơn vừa để báo cho mẹ biết chàng đã về, cho mẹ yên lòng nơi chín suối cũng là mừng ngày đoàn tụ. Không ngờ ngày vui ngắn chẳng tày gang, buổi trưa hai cha con trở về, tâm trạng của chàng không vui hiện rõ trên nét mặt. Sau đó chàng nặng lời tra hỏi tôi trong thời gian chàng đi xa tại sao làm chuyện xấu xa thất tiết trái đạo lý... tôi không hiểu rõ nguyên nhân vì sao, thấy chàng như vậy chỉ biết khóc. Tôi đã giải thích cho chàng hiểu: Tôi nói đến thân phận mình là con nhà kẻ khó được nương tựa nhà giàu trong thời gian chồng đi lính vẫn một lòng chung thủy chờ đợi, không hề làm chuyện xấu xa, thất tiết. Tôi cũng cầu mong van xin chống đừng nghi oan để cứu vãn hạnh phúc gia đình có nguy cơ tan vỡ.

Nhưng chàng không tin, hỏi chuyện kia do ai nói chàng cũng không nói. Làng xóm bênh vực cho tôi cũng chẳng ăn thua gì, chàng vẫn một mực mắng mỏ rồi đuổi đi. Tôi tuyệt vọng đến cùng cực vì tai họa bất ngờ ập đến nên cố bày tỏ nhưng chàng vẫn lạnh lùng không thay đổi. Biết rằng người có tính cách như chàng thật khó giải thích nên tôi tắm gội chay sạch, suy nghĩ trước sau thấy rằng cuộc đời thật không có ý nghĩa, bao nhiêu vất vả với gia đình, ngay cả tấm lòng thủy chung một mực chăm lo cho mẹ già, con trẻ nhưng bây giờ cũng bị phủ nhận không thương tiếc. Tôi không thể sống mà mang tiếng xấu xa để người đời khinh rẻ nên chỉ còn một cách là lấy cái chết để minh oan. Tôi ra bến Hoàng Giang ngửa mặt lên trời than cầu mong thần linh chứng giám cho tấm lòng thủy chung của mình, xong gieo mình xuống sông. Nhưng các nàng tiên trong cung nước thấu hiểu nỗi oan của tôi rẽ đường nước cho tôi xuống thủy cung.

Một hôm tôi gặp Phan lang, người cùng làng trước đây có ơn với Linh Phi nên khi gặp nạn đã được Linh Phi cứu. Phan Lang kể chuyện cho tôi: "Chàng Trương sau khi thấy vợ chết tuy giận nhưng vẫn động lòng thương cho tìm vớt thây nàng nhưng không thấy. Thế rồi mấy hôm sau mọi người nghe chàng ân hận kể lại rằng: Một hôm phòng không vắng vẻ chợt đứa con chỉ cái bóng trên tường của chàng nói là cha Đản. Chàng lúc ấy mới thấu hiểu nỗi oan của vợ, ân hận nhưng đã muộn rồi".

Nghe Phan Lang kể tôi cũng thấy xót xa thương chồng con vì không ai chăm sóc. Không kiên nhẫn tìm hiểu nguyên nhân mà quá đau đớn tuyệt vọng mà dẫn tới cái chết. Phan Lang khuyên tôi nên trở về, ban đầu tôi đã nói không còn mặt mũi nào quay lại nữa nhưng sau đó vì nhớ quê hương, chồng con, lại mong muốn được giải oan, phục hồi danh dự nên tôi lại nói sẽ quay trở về. Hôm sau Phan Lang trở về dương thế, tôi gửi theo chiếc hoa vàng và lời nhắn chàng Trương tôi sẽ có ngày trở về dương thế. Mấy ngày hôm sau thấy Trương Sinh lập đàn giải oan 3 ngày 3 đêm ở bến sông Hoàng Giang với tình cảm chân thành hối lỗi và thực sự mong tôi quay về. Thấy vậy Linh Phi có ý khuyên tôi nên về với chồng con nhưng tôi vì có nghĩa với Linh Phi và lại hạnh phúc gia đình tan vỡ khó hàn gắn nên không muốn trở về.

Đến ngày thứ ba, giữa trốn trần gian mịt mù khói tỏa thì Linh Phi đã cho 50 chiếc kiệu hoa hiện lên giữa dòng sông, tôi ngồi trên một chiếc kiệu nói vọng vào bờ lời tạ từ với chồng con rồi từ từ biến mất.

Chuyện của gia đình tôi là câu chuyện buồn: Dù quá khứ đã lùi xa nhưng có lẽ những người trong cuộc vẫn bị ám ảnh day dứt. Riêng bản thân tôi dù đã sống cuộc sống trần gian, nhớ chồng con vẫn chôn kín ở trong lòng khó có thể diễn tả bởi chính cuộc sống ấy đã đẩy tôi đến cái chết. Hy vọng rằng đừng gia đình nào rơi vào bi kịch.

#Châu's ngốc

13 tháng 9 2019

Tôi là Vũ Thị Thiết quê ở Nam Xương người đời yêu quí gọi tôi là Vũ Nương. Tôi vốn con nhà nghèo khó nhưng được cha mẹ dạy bảo ân cần chu đáo nên người trong làng khen tôi tính tình thùy mị nết na lại thêm có tư dung tốt đẹp vì thế có bao nhiêu trai làng bám đuổi. Trong đó có chàng Trương Sinh con nhà hào phú xin với mẹ đem trăm lạng vàng cưới tôi về làm vợ. Chính cuộc hôn nhân khập khiễng này khiến tôi gặp bao điều khó khăn. Ôi số phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến này bất hạnh biết bao!

Ngày ấy tôi cũng biết chồng đa nghi hay ghen với vợ phòng ngừa quá sức nên hết sức giữ gìn khuôn phép vợ chồng chưa từng xảy ra chuyện thất hòa. Vợ chồng tôi ăn ở êm ấm, lại sắp có đứa con đầu lòng vui mừng hạnh phúc biết bao nhưng cuộc sống không bao giờ êm ả xuôi chiều mát mái như ta trong đời. Giặc Chiêm bỗng xâm phạm bờ cõi nước ta chồng tôi ít học nên bị bắt đi lính vào loại đầu, chia lìa mất mát đau thương là những gì chiến tranh mang lại. Buổi tiễn đưa tôi chỉ biết rót chén rượu đầy bày tỏ nỗi lòng mong chàng bình yên trở về. Thấu hiểu khó khăn mà chồng phải chịu. Bày tỏ nỗi khắc khoải nhớ mong của mình.

Thời gian đằm đắm trôi qua đến cữ tôi sinh bé Đản phần nào vơi bớt nỗi cô đơn nhớ mong chồng. Nhưng mẹ chồng tôi nhớ con trai mà sinh ốm tôi đã lấy lời ngọt ngào khuyên lơn mẹ gắng ăn miếng cơm miếng cháo để Trương Sinh về rồi thuốc thang lễ bái thần phật tôi mong mẹ chồng khỏe. Như mẹ tôi đã không qua nổi trước lúc mất bà còn trăn trối lại ghi lại công lao của tôi.

"Sau này… phụ mẹ"

Tấm lòng của bà nhân hậu biết bao! Từ đấy chỉ còn có tôi cùng bé Đản. Nhớ thương chồng và muốn bù đắp cho con. Tôi thường chỏ bóng trên tường mỗi tối rồi bảo con "Cha Đảm lại đến kia kìa!". Bé Đản ngây thơ tin là thật thường đùa vui cùng chiếc bóng.

Thấm thoắt đã 3 năm. May mắn biết bao chồng tôi an lành trở về. Vợ chồng gặp nhau mừng mừng tủi tủi hạnh phúc như vỡ òa. Biết tin mẹ mất Trương Sinh rất buồn bế con ra thăm mộ mẹ khi chàng vừa trở về "giông tố" đã nổi lên chàng la mắng tôi không tiếc lời một mực bảo tôi hư thân mất nết không thủy chung với chàng. Tai họa ở đâu ập xuống đầu tôi khủng khiếp như vậy tôi khóc lóc phân trần giải thích:

"Thiếp vốn con… như lời chàng nói".

Có lẽ tất cả những lời phân trần của tôi không thể lọt tai chàng họ hàng làng xóm bênh vực tôi chàng cũng không nghe. Tôi hỏi thì chàng lại giấu. Khiến tôi không thể thanh minh.

Lửa ghen trong lòng chàng mỗi lúc bùng phát dữ dội hơn chàng mắng nhiếc rồi đánh đuổi tôi ra khỏi nhà. Ước mơ bé nhỏ mà cả đời tôi theo đuổi là hạnh phúc gia đình giờ đây không còn nữa. Gia đình không còn nữa. Danh dự bị bôi nhọ. Bị tuyệt vọng tột cùng tôi chỉ biết tìm đến cái chết. Tắm rửa chay sạch tôi ra bến Trường Giang than cùng trời đất chứng giám tấm lòng trong sạch của mình rồi gieo mình xuống sông tự vẫn.

Người ta nói ở hiền gặp lành không ngờ nỗi oan khuất của tôi đã động lòng trời đất các nàng tiên cá đã rẽ một đường nước đưa tôi xuống thủy cung của Lương Phi chốn này đến đài cung điện nguy nga lộng lẫy. Người đối xử với nhau nhân hậu vô cùng thật là cuộc sống mong đợi ước ao! Trong một bữa tiệc. Lương Phi khoản đãi người có ơn cứu mạng, không ngờ tôi gặp Phan Lang – Người cùng làng và cũng là ân nhân của Lương Phi. Nghe Phan Lang kể tôi mới biết Trương Sinh bế con ngồi bên ngọn đèn con trỏ bóng nhận cha, chàng mới thấu hiểu nỗi oan của tôi. Cuộc đời sao mà tàn nhẫn đến vậy chính đứa con tôi hết mực yêu thương đã gieo mầm họa. Chính người chồng tôi hết lòng yêu thương thủy chung đã đa nghi hay ghen hồ đồ đẩy tôi vào chỗ chết.

Phan Lang còn kể cảnh nhà tôi tan tác tiêu điều khiến tôi không thể cầm nước mắt dù vẫn rất giận chàng Trương Sinh, nhưng tôi nhất quyết tìm về có ngày. Tôi nhờ Phan Lang mang chiếc hoa vàng cùng lời nhắn khi chàng lập đàn giải oan bên bến Trường Giang tôi được Phan Lang đưa về trong cảnh võng lọng cờ hoa rực rỡ đầy sông nhưng tôi chỉ biết cảm tạ tình chàng đã giúp tôi minh oan triều tuyết giữa thanh thiên bạch nhật mà không thể trở về trần gian vì tôi không muốn phụ ân đức của Phan Lang. Và cũng bởi thực tế ở đời người chết không thể sống lại được lên hiện loang loáng ở giữa dòng rồi biến mất. Xã hội phong kiến bất bình đẳng này không thể có chỗ dung thân cho những người như tôi.

Chao ôi! Cuộc sống ở cõi trần thật đen bạc! Mong rằng xã hội bất công này sẽ bị xóa bỏ chính tư tưởng trọng nam khinh nữ đã dung túng cho Trương Sinh có thói gia trưởng đẩy tôi vào cuộc đời oan khuất. Xã hội cần cải tiến xây dựng một cuộc sống bình đẳng nam nữ bình quyền kể ra câu chuyện này tôi còn mong người đời lấy đó là bài học giữ gìn hạnh phúc. Hạnh phúc chỉ được xây dựng trên cơ sở tin yêu tôn trọng lẫn nhau. Ghen bóng ghen gió sẽ khiến gia đình tan vỡ.

Gia đình tôi có bốn người gồm ;bố mẹ, anh trai và tôi . Gia đình tôi là một gia đình vô cùng hạnh phúc đầm ấm ,hàng xóm ,bạn bè cùng lớp không ai là không ngưỡng mộ tình cảm bền chặt của các thành viên trong gia đình tôi ,nhưng biết đâu được hạnh phúc ấy chỉ còn trong khoảng thời gian trước chứ bây giờ nó đã quá xa vời đối với anh em chúng tôi rồi . Giữa bố và mẹ ngày trước thắm thiết như thế nhưng bây giờ còn đâu bằng những lời than trách ,đổ lỗi cho nhau chứ .Cuối cùng họ đã quyết định ...ly hôn . Ngày mà anh em tôi biết chuyện cũng chính là ngày tận thế ,đen đủi nhất trong cuộc đời 2 anh em tôi .Tôi và anh trai không thể nào kìm nét được những giọt nước mắt,nó cứ ứa ra hoài suốt từ ngày hôm đó đến giờ .Trời ơi ! chúng tôi đã làm điều gì sai mà tai họa lại ập đến chúng tôi thế này .Tôi không muốn rời xa mẹ cũng không muốn rời xa ba và tôi càng không nỡ xa anh .Tôi và anh trai yêu thương đùm bọc nhau lắm làm sao chúng tôi có thể rời xa nhau, huống hồ ngày chia tay đã đến còn ngày gặp lại thì bỗng mờ nhạt vô cùng .Nếu bây giờ có một điều ước tôi sẽ ước cho mình và cho tất cả các bạn nhỏ trên thế giới này sẽ mãi mãi được sống trong một gia đình đầm ấm ,hạnh phúc có cha,có mẹ .

               kkk cho mk nha

18 tháng 7 2019

cảm ơn bạn

24 tháng 12 2020

Tôi là một người nông dân làng chợ Dầu. Mọi người thường gọi tôi là ông Hai Thu. Kháng chiến bùng nổ tôi muốn ở lại làng cùng anh em bộ đội và dân quân kháng chiến. Nhưng vì hoàn cảnh gia đình nên tôi phải cùng gia đình đi tản cư. Ở nơi tản cư tôi rất nhớ làng và thường có hay khoe về làng mình.

Đang trong tâm trạng náo nức thì tôi nghe được tin làng chợ Dầu của tôi theo Tây làm Việt gian. Lúc đó cổ họng tôi nghẹn ắng lại, da mặt tê rân rân. Tôi lặng đi tưởng như không thở được. Một lúc lâu tôi mới dặn è è, nuốt một cái gì vướng ở cổ, tôi hỏi lại về cái tin ấy thì người ta đã khẳng định một cách chắc chắn. Tôi vờ vờ đứng lảng ra chỗ khác rồi đi thẳng về nhà. Về đến nhà, tôi nằm vật ra giường nhìn lũ con tôi thấy tủi thân, nước mắt tôi cứ tràn ra. Chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng hắt hủi đấy ư? Tôi ngờ ngợ chả nhẽ bọn ở làng lại đốn đến thế ư rồi tôi tự kiểm điểm trong óc thấy họ đều là những người có tinh thần yêu nước, yêu kháng chiến chẳng nhẽ lại đi làm cái điều nhục nhã ấy nhưng không có lửa làm sao có khói. Tôi cảm thấy tủi nhục, chiều hôm ấy vợ tôi về cũng có vẻ khác. Trong nhà có cái sự im lặng thật là khó chịu. Mãi đến khuya vợ tôi mới hỏi tôi về cái tin ấy. Tôi im lặng rồi gắt lên vậy là bà ấy im bặt. 3 - 4 ngày hôm sau tôi không dám bước chân ra ngoài chỉ ở trong gian nhà trật trội để nghe ngóng tin tức. Lúc nào tôi cũng nơm nớp lo sợ, hễ nghe đến chuyện ấy là tôi lại giật mình. Trong tôi giờ đây đang diễn ra một cuộc chiến tranh nội tâm gay gắt khi mụ chủ nhà có ý đuổi gia đình tôi đi. Tôi lâm vào tình trạng bế tắc: về làng hay ở lại. Cuối cùng tôi đến quyết định: làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây rồi thì phải thù. Trong tâm trạng đau đớn tủi hờn, tôi tâm sự với thằng con út. Sau khi tâm sự xong, nỗi khổ của tôi vơi đi phần nào. Rồi một hôm khoảng 3 giờ chiều, có người đàn ông đến nhà tôi chơi. Ông ấy rủ tôi đi theo ông ấy đến sẩm tối tôi mới về. Lúc ấy tôi rất vui. Đến bực cửa tôi đã bô bô khoe rằng Tây nó đốt nhà tôi rồi, ông chủ tịch làng tôi vừa mới lên cải chính, ông ấy cho biết cái tin làng tôi theo Tây làm Việt gian là sai sự mục đích. Cứ thế tôi lật đật đi khoe khắp nơi, tối hôm ấy tôi sang gian bác Thứ nói chuyện về làng của tôi.