hãy kể lại câu chuyện hạt đậu thần
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Hẳn các bạn học sinh như tôi đều đã biết câu chuyện về Mã Lương và cây bút thần: Mã Lương là một em bé giàu lòng thương người và rất có ý chí. Mồ côi bố mẹ từ sớm, em phải tự mình kiếm sống. Tuy nghèo khó nhưng em sẵn sang giúp đỡ mọi người xung quanh. Em được thần ban cho một cây bút, vẽ gì thì lập tức thứ đó biến thành thật. Em dùng bút đó vẽ cho dân làng nhà cửa, bát đĩa, thóc gạo… Nhờ đó, mọi người được sống no ấm, vui vẻ và hạnh phúc. Nhưng vua chúa không muốn vậy. Chúng hãm hại Mã Lương để đoạt cây bút thần. Mã Lương đã dùng chính cây bút đó diệt trừ bọn gian ác. Sau đó, Mã Lương đi đâu, làm gì, không ai rõ.
Mọi người đưa ra các giả thiết khác nhau. Giả thiết nào cũng có lí, và chính vì vậy, chúng ta vẫn chưa có được câu trả lời chính xác Mã Lương đi đâu, làm gì?
Gần đây, nhân chuyến du lịch cùng bố mẹ sang Trung Quốc, tôi tìm được một tài liệu nói về đoạn kết cuộc đời của Mã Lương. Tôi kể lại cho các bạn nghe nhé:
Sau khi giết chết tên vua tham lam, độc ác, Mã Lương về quê. Làng quê giờ đã khá hơn xưa. Mọi người hân hoan đón chào em. Một ông già rẽ đám đông đến bên Mã Lương:
– Cháu ơi! Cháu hãy vẽ cho già một con bò và một cái giếng để già đỡ vất vả.
Mã Lương đến nhà ông cụ, chỉ qua vài nét vẽ, một con bò béo múp míp, lông vàng mượt và một cái giếng nước trong leo lẻo hiện ra. Mọi người nhảy quanh con bò reo hò. Nó sợ quá, chạy lung tung chẳng may đâm sầm vào Mã Lương, hất cây bút em đang cầm trong tay ra xa. Mọi người vội vã tìm kiếm. Tìm mãi, tìm mãi, ngày này qua ngày khác mà vẫn không thấy. Tất cả những thứ Mã Lương vẽ trước đây đều biến mất. Làng quê lại xác xơ, tiêu điều như xưa. Nhiều người bỏ quê đi nơi khác sinh sống. Mã Lương lên kinh đô. Ở nơi phồn hoa đó, Mã Lương đã không giữ được ý chí thời thơ bé của mình, em trở nên chán nản, biếng lười,… Ít lâu sau, em ốm rồi mất. Dân làng vẫn nhớ ơn em, lập đền thờ. Trong đền có tượng Mã Lương cầm cây bút thần, đang vẽ.Tôi không biết giả thiết này có đúng không. Nếu bạn nào tìm được những tài liệu khác về đoạn cuối đời của Mã Lương thì cho tôi biết nhé.
Cây bút thần từ lâu đã không được dùng đến. Hôm nay, nhân buổi đại tiệc mừng chiến thắng, nhà vua mới mang ra vẽ để thần dân trăm họ được thưởng thức. Nhà vua anh minh ấy không ai khác chính là cậu bé Mã Lương thuở nào. Sau khi trừng trị tên vua gian ác, cậu đã được nhân dân tôn sùng làm hoàng đế đứng lên trị vì đất nước.
Thuở nhỏ, Mã Lương là cậu bé mồ côi cha mẹ từ sớm. Mã Lương rất thích học vẽ và vẽ rất đẹp, tưởng như mọi thứ em vẽ đều thành sự thật. Nhưng vì nhà nghèo, em không mua nổi một cây bút. Niềm mơ ước giản dị ấy đã thấu đến các vị thần linh. Vì thế, em đã được tặng một cây bút thần. Cây bút này quả là kì diệu. Vẽ con chim, con chim tung cánh bay lên trời, vẽ con cá, con cá trườn xuống sông bơi lội… Thế là từ đó em dùng cây bút thần vẽ giúp cho mọi người dân nghèo trong làng. Ai thiếu gì em cũng vẽ cho nhưng chỉ vẽ những công cụ dùng để sản xuất. Mã Lương tuy nhỏ nhưng có tấm lòng thật nhân ái. Mọi nguời trong làng đều biết ơn em.
Rồi câu chuyện về cây bút lọt đến tai tên địa chủ gian ác. Hắn bắt Mã Lương phải vẽ theo ý muốn của hắn. Nhưng không chịu phục tùng trước cải xấu, em đã kiên quyết chiến đấu đến cùng. Bằng tài năng và trí thông minh của mình, em thoát khỏi tay tên địa chủ ấy... Trốn đến một thị trấn nhỏ, Mã Lương vẽ tranh để bán ở phố. Tranh em vẽ rất đẹp nhưng bao giờ cũng thiếu một bộ phận nào đó. Do một lần sơ ý em làm lộ bí mật và bị tố giác với vua. Những gì Mã Lương được nghe, được thấy về tên vua tàn ác này đã khiến em rất căm giận. Những gì vua mong muốn em đều không làm theo mà cố ý vẽ khác đi. Nhà vua tức giận, cướp cây bút thần của Mã Lương. Nhà vua đâu biết rằng chỉ có tài năng như Mã Lương, có tấm lòng nhân ái, bao dung như em mới có thể sử dụng được cây bút thân Bút thần chính là sứ giả được phái đến bên em, để em giúp đỡ những người nghèo khổ Với những kẻ tham lam, độc ác như tên địa chủ và bây giờ là nhà vua thì cây bút thần thành cây bút trừng trị. Nhà vua không thể điều khiển nó theo ý mình.
Biết không thể làm gì nếu thiếu Mã Lương, hắn dụ dỗ em nhiều điều danh lợi. Mã Lương vờ như đồng tình để tìm cách trừng phạt hắn. Nhà vua muốn dạo chơi bằng thuyền trên biển. Mã Lương vẽ ngay một biển cả mênh mông, xanh biếc, không một gợn sóng. Trên con thuyền buồm lớn, đầy đủ vua quan, hoàng hậu, công chúa và hoàng tử. Mã Lương bắt đầu cho những cơn gió đầu tiên thổi lên nhè nhẹ. Nhưng nhà vua lại muốn những con gió lớn hơn, ngay tức khắc, em đáp ứng yêu cầu. Gió thổi mạnh lên, biển động, thuyền lắc lư nghiêng ngả. Nhà vua sợ hãi kêu Mã Lương đừng cho gió to nữa. Nhưng mặc những lời kêu than, em tiếp tục đưa những nét bút thành những đường cong lớn làm cho gió to, sóng xô vào thuyền hết đợt này đến đợt khác. Mã Lương tranh thủ cơ hội này trừng trị thích đáng tên vua và những tên tham quan làm hại dân chúng. Nỗi căm giận ấy khiến em vẽ những cơn gió to hơn. Và cuối cùng, sóng biển nổi lên như những trái núi khổng lồ ập đến nuốt chửng con thuyền. Con thuyền chờ vua quan, hoàng tộc đã vĩnh viễn nằm sâu dưới đáy biển cùng tội ác của chúng.
Câu chuyên Mã Lương trừng phạt vua quan độc ác đã lan truyền khắp nơi. Ai cũng biết ơn và ca tụng em. Còn Mã Lương, sau chuyện đó đã cùng cây bút thần đi đâu không biết. Nhân dân cá nước đều đồng tình tôn em làm nhà vua mới bởi một người tài năng, đức độ như Mã Lương sẽ giúp cho dân chúng thoát khỏi cơ cực, lầm than. Tất cả mọi người đều đi tìm Mã Lương... Cuối cùng mọi người đã tìm thấy khi Mã Lương đang vẽ, nhưng không phải bằng bút thần mà bằng chính cây bút em mua được do lao động. Trước tấm lòng của nhân dân, Mã Lương đồng ý về cung làm hoàng thượng. Đúng như mong mỏi của nhân dân, Mã Lương là vị vua anh minh, sáng suốt và nhân hậu, lúc nào cũng vì dân chúng. Cũng từ khi làm vua, Mã Lương không dùng đến cây bút thần nữa Nhà vua muốn bằng chính tài năng của mình mà trị vi đất nước và cũng muốn rằng, con dân của mình dựa vào sức mạnh của mình mà đi lên...
Hôm nay, nhà vua cho mở đại tiệc mừng đoàn quân chiến thắng trở về. Trong không khí vui mừng của ngày hội lớn, nhà vua lấy cây bút thần ra vẽ, tặng cho dân chúng một món quà. Đã lâu không dùng đến bút thần nhưng nhà vua vẫn vẽ rất đẹp. Và ai cũng thấy, đó chính là cậu bé Mã Lương ngày nào.
Bạn tham khảo nha!
Tham khảo: Hạt mưa nhỏ đi khắp thế gian, từ đáy biển sâu tới đỉnh núi cao chót vót; lúc biến thành băng tuyết lạnh run người, lúc lại biến thành hơi nước bốc tít lên cao. Cuộc hành trình của hạt mưa nhỏ thật là thú vị, mẹ hãy kể cho con nghe nhé! Hạt mưa vốn là những giọt nước nhỏ xíu xiu. Những giọt nước tập hợp lại với nhau, lớn dần lên tạo thành những đám mây trắng xốp. Ấy, nhưng lại có thêm những giọt nước khác nữa cũng thích ùa vào chơi, đám mây trắng xốp biến thành đám mây đen xầm xì nặng ơi là nặng. Nặng đến mức phải trút xuống thành mưa, tuyết, mưa tuyết hay mưa đá… Hạt mưa cùng các anh em của mình rơi xuống, và tỏa đi khắp nơi. Nhóm thì ở lại mặt đất dưới dạng băng hà lạnh cóng; nhóm thành tuyết phủ trên đỉnh núi; nhóm ngấm vào lòng đất, hòa vào mạch nước ngầm; và một nhóm khác nữa sẽ rơi xuống đại dương, sông, hồ, suối… Thế rồi ông mặt trời lên, làm nước trong các đại dương, ao hồ bốc hơi. Nước trong cây cối cũng thoát qua chiếc lá. Hơi nước bốc lên, gặp lạnh, biến thành những giọt nước nhỏ xíu xiu, và những giọt nước này lại hợp lại với nhau tạo thành những đám mây.Câu chuyện về hạt mưa nhỏ là như vậy đấy, một câu chuyện thật thú vị, đúng không nào?
Bài làm
Tôi là nhân vật Mã Lương trong câu truyện " Cây bút thần " mà các bạn được học trong Ngữ Văn 6 đây. Sau đây tôi sẽ kể lại câu chuyện của mình.
Tôi là một cậu bé thông minh và ham học vẽ từ nhỏ. Đi đến đâu tôi cũng vẽ nhưng nhà nghèo qua nên tôi không mua nổi được 1 cây bút. Một hôm nằm mơ tôi được cụ già râu tóc bạc phơ cho chiếc bút thần bằng vàng. Tôi vui lắm, vẽ chim, chim bay lên trời, vẽ cá, cá trườn xuống sông. Tôi vẽ cuốc, vẽ cày, vẽ đèn, vẽ thùng múc nước cho người nghèo.
Tên địa chủ biết chuyện bèn sai đầy tớ bắt tôi về vẽ cho hắn. Tôi từ chối, hắn tức giận, đem giam tôi vào chuồng ngựa và bỏ đói. Tôi liền vẽ bánh để ăn, vẽ lò để sưởi. Tên địa chủ tức giận sai đầy tớ giết tôi để cướp bút thần. Tôi vẽ thang để trèo ra ngoài, vẽ ngựa để chạy trốn, vẽ cung tên bắn chết tên địa chủ cầm dao đuổi theo.
Dừng chân ở một thị trấn, tôi vẽ tranh bán để kiếm sống. Vì sơ ý tôi để lộ cây bút thần. Tên vua tham lam, tàn ác bắt tôi vẽ theo ý hắn. Tôi cũng không chịu, tôi thậm chí còn chơi khăm nhà vua. Thay vì vẽ rồng, vẽ phượng, tôi lại vẽ con cóc ghẻ, con gà trụi lông. Vua tức giận cướp lấy cây bút thần nhưng hắn vẽ núi vàng thì thành ra núi đá, vẽ cả thỏi vàng thì thành ra con mãng xà toan nuốt chửng cả vua.
Thấy không ăn thua, vua bèn xuống nước dỗ dành và hứa gả công chúa cho tôi. Tôi vờ đồng ý rồi vẽ biển xanh, vẽ thuyền rồng cho vua cùng cả triều thần đi chơi ngắm cá. Cuối cùng, tôi đã vẽ cuồng phong dữ dội nhấn chìm thuyền rồng, chôn vùi tên vua tham lam, độc ác.
Sau đó tôi đã đi khắp mọi nơi với cây bút thần để giúp đỡ những người nghèo khổ.
Chúc bạn học tốt môn Văn
- Tôi bắt đầu một cuộc sống phiêu du nay đây mai đó kể từ khi rời bỏ xóm làng, rời bỏ những kẻ tham lam,tàn ác. Ngày ngày tôi cùng chú ngựa thân yêu rong ruổi đến những vùng núi xa, bởi tôi biết rằng ở đócuộc sống của họ còn gặp rất nhiều khó khăn, thiếu thốn.Một hôm, trời đã bắt đầu về chiều, tôi quyết định dừng chân nghỉ ở một ngôi làng nhỏ nằm sát ven rừng.Khung cảnh làng mạc xung quanh có vẻ tiêu điều, xơ xác. Cây cối chẳng mấy xanh tốt, đồng ruộng khôcằn, có những mảnh ruộng đã chết cháy chỉ còn lơ thơ vài ngọn cỏ. Trên đường đi tôi gặp một cụ già nétmặt đăm chiêu lo lắng, đến gần cụ, tôi chào:- Cháu chào cụ ạ. Cụ ơi ở đây có ngôi nhà nào có thể ở trọ qua đêm được không ạ?Cụ già nhìn tôi, đáp:- Trước đây thì cũng có đấy nhưng mấy năm nay hạn hán kéo dài, cuộc sống đói khổ nhiều người chẳngcòn làm ăn được nữa, và nhiều người đã bỏ làng đi tìm nơi khác.Nói xong cụ già giơ tay chỉ ra mấy cánh đồng trước mặt, nói tiếp:- Đấy cả nhà tôi trông vào ruộng lúa này mà nay chỉ còn trơ vài ngọn cỏ, chẳng biết từ nay nhà tôi lấy gìmà ăn nữa.Nói đoạn ông hỏi tôi:- Thế cậu từ đâu đến mà lại lạc vào xứ này, có lẽ đã lâu lắm rồi chẳng còn ai dám đến làng ta chơi nữa.Thôi cậu hãy vào nhà ta nghỉ tạm một đêm, mai hãy đi tiếp.Tôi theo lão nông về nhà, ngôi nhà nhỏ của lão nằm nép bên chân núi, nhìn từ xa chẳng khác gì mộ túplều.Nhìn gia cảnh nghèo nàn của lão tôi vô cùng ái ngại, tôi nói với lão:- Cháu có thể giúp làng ông có nước để tưới cho cây khỏi chết khô.Nghe tôi nói vậy, ông lão nhìn tôi tỏ vẻ nghi ngờ, nhưng sau khi thấy tôi quả quyết lão vô cùng sungsướng. Lão lật đật chạy vào làng thông báo cho tất cả mọi người. Chỉ một loáng sau tất cả già trẻ gái traiđã đến tụ tập đầy trước nhà ông lão. Nhìn họ ai cũng đói rách, khốn khổ.Tôi liền đưa bút vẽ mấy nét một con sông đã hiện ra trước mắt nước trong veo và muốn cho dân làng cócái ăn tôi lại chấm mấy cái thế là hàng đàn cá tung tăng bơi lội.Bà con vô cùng mừng rỡ, họ gọi nhau đi bắt cá và ai nấy còn thức gì có thể ăn được đều đem đến nấuchung để cả làng liên hoan một bữa no say.Đêm đó tôi tâm sự với ông lão về cuộc sống trước đây của tôi, ông lão tỏ ra vô cùng thương xót và cảmthông, lão nói:- Nhà ta cũng chẳng giàu có gì nhưng cháu hãy ở đây làm con nuôi của ta, hai cha con ta chịu khó làmlụng cũng có thể đủ sống.Dù rất quý ông lão nhưng tôi vẫn không thể ở lại, vì tôi hiểu rằng còn có rất nhiều hoàn cảnh khó khăn,họ sẽ cần đến cây bút thần của tôi.Sáng hôm sau, từ biệt ông lão tôi lại rong ruổi trên đường, mong cứu giúp được nhiều hơn những conngười nghèo khổ.
Tôi là Mã Lương, khi tôi vừa lên mười thì bố mẹ tôi mất, để lại tôi một mình trong cuộc đời đầy cô quạnh này. Tôi ngày ngày đi kiếm củi để bán lấy tiền, lên núi gánh nước, tuy tuổi còn nhỏ nhưng những công việc nặng nhọc của người lớn tôi đều đã từng làm qua. Tuy khổ cực nhưng tôi luôn nhận được sự giúp đỡ từ bà con hàng xóm, điều đó làm tôi vô cùng hạnh phúc. Tôi tuy nghèo nhưng lại có một mong ước vô cùng da diết, đó là được đi học, được cầm bút vẽ lên những vật mà tôi nhìn thấy hàng ngày. Nhưng ngay cả miếng ăn còn thiếu thốn thì việc đi học là vô cùng xa xỉ. Nhưng trong một lần nằm mộng, tôi đã gặp một ông lão đầu tóc bạc phơ, ông cho tôi một cây bút. Tôi vui mừng tỉnh dậy thì phát hiện trong tay đang cầm cây bút ở trong mộng. Từ khi có cây bút thần, cuộc sống của tôi đã hoàn toàn thay đổi, tôi có thể rat ay giúp đỡ những người nghèo khó, đồng thời có thể thẳng tay mà trừng trị kẻ ác.
Ngày nào tôi cũng lên núi kiếm củi, bán cho những gia đình địa chủ để lấy phí sinh hoạt cho cuộc sống hàng ngày. Đồng thời tôi ra bờ suối để lấy nước, đây cũng là khoảng thời gian tôi yêu thích nhất, vì đây là khoảng thời gian tôi rảnh rỗi nhất trong ngày. Tôi có thể thỏa sức nô đùa cùng bạn bè cùng trang lứa, cũng có khi tôi rón rén đến một lớp học gần đó để xem thầy giáo dạy học. Đây cũng là lúc tôi được sống hết mình với niềm đam mê của mình, đó chính là vẽ. Vì nhà nghèo, không có tiền mua bút nên tôi dùng những cành củi khô mà vạch từng đường lên phiến đá. Tôi mô phỏng lại hình dạng của những con vật, những khung cảnh xung quanh mà tôi từng nhìn thấy.
Các bạn ai cũng tấm tắc khen ngợi những hình vẽ mà tôi vẽ ra, khen chúng rất giống thật. Còn người lớn mỗi khi đi ngang qua thì vỗ vai tôi khen “Mã Lương vẽ thật có hồn”. Nhận được những lời khen làm tôi vui lắm, tôi vẽ mọi nơi có thể, căn nhà nhỏ của tôi cũng tràn ngập những hình vẽ mà tôi dùng than củi để vẽ. Tôi vẽ nhiều đến mức bốn bức tường xung quanh chật kín những hình mà không thể vẽ tiếp được nữa. Đêm hôm ấy, khi đã chìm vào giấc ngủ, tôi mơ thấy mình đang ngồi trên phiến đá và vẽ vời những thứ mình thích thì bỗng ở đâu hiện lên một ông lão đầu tóc bạc phơ, khuôn mặt hiền từ.Ông lại gần xoa đầu tôi và sau đó tặng tôi một cây bút, tôi vui lắm, nhận bút rồi rối rít cảm ơn ông lão. Nhưng chỉ trong chốc lát, ông lão đã biến đâu mất không chút dấu vết. Đến đó, tôi chợt bừng tỉnh nhưng kì lạ thay tay tôi đang cầm một cây bút, cây bút này giống hệt với trong giấc mơ. Lúc này tôi mới biết người mình gặp trong mơ là Tiên ông. Lập tức tôi mang cây bút ra vẽ thử, nhưng kì lạ hơn nữa, tôi vẽ ra con cá thì con cá bỗng quẫy đuôi mà quẫy xuống nước, tôi vẽ chim thì chim vỗ cánh bay lên trời. Tôi vui mừng lắm vì như vậy tôi không chỉ thỏa sức vẽ mà còn có thể giúp đỡ cho bà con cô bác nghèo trong xóm.
Từ ngày hôm ấy, tôi thường xuyên giúp đỡ các cô bác trong những khu vực lân cận, ai thiếu cày tôi vẽ cày, ai thiếu trâu tôi vẽ trâu, thiếu gì vẽ đấy. Được giúp đỡ mọi người làm tôi rất vui. Nhưng vẽ tin đồn lan xa, một ngày xuất hiện trước mặt tôi là một đám người, chúng bắt tôi về và bắt tôi vẽ cho một người đàn ông trung niên, khuôn mặt gian ác, thì ra đó chính là tên địa chủ khét tiếng tham lam ở làng bên. Tôi không hề vẽ ra bất cứ hình vẽ nào mà hắn ta yêu cầu, vì tôi biết rõ lòng tham và sự độc ác của chúng. Mục đích không thành, hắn ta bắt tôi vào ngục, nhưng hắn ta không thể làm khó được tôi, trời lạnh tôi vẽ ra lửa, đói bụng tôi vẽ ra gà rừng, ung dung ngồi nướng thịt để ăn.
Hắn ta nảy ý định giết chết tôi để cướp bút thần, nhưng tôi không để hắn đạt được âm mưu của mình. Khi người của tên địa chủ nọ kéo đến thì tôi đã thoát khỏi nhà giam với một cây thang, sau đó tôi vẽ ra ngựa để chạy trốn. Nhưng thật không ngờ, lại có đám người khác chặn trước ngựa của tôi, thì ra lần này là người của nhà vua. Đây là ông vua chỉ biết ăn chơi xa đọa mà không chăm lo cho đời sống của người dân, vì vậy mà ông ta yêu cầu tôi vẽ rồng thì tôi vẽ ra rắn rết, côn trùng. Ông ta yêu cầu tôi vẽ một con thuyền tôi vẽ một con thuyền giữa biển khơi.
Ông ta cùng hoàng hậu, công chúa và tham quan bước lên, tôi vẽ những gợn sóng nhỏ, gió nhẹ nhưng thích thú với điều kì lạ, vị hôn quân kia liên tục yêu cầu tôi cho gió thổi mạnh lên để gió thổi căng buồn, tôi vẽ thành cơn bão tố, lật đổ nhấn chìm cả đám người xấu xa. Đây là kết cục tất yếu dành cho những kẻ tham lam, độc ác. Sau khi chôn vùi lũ người ham vật chất mà bất chấp luân lí, tôi đã biến mất cùng cây bút thần, không có ai trong nhân gian có thể nhìn thấy tôi nữa.
Tôi bắt đầu một cuộc sống phiêu du nay đây mai đó kể từ khi rời bỏ xóm làng, rời bỏ những kẻ tham lam, tàn ác. Ngày ngày tôi cùng chú ngựa thân yêu rong ruổi đến những vùng núi xa, bởi tôi biết rằng ở đó cuộc sống của họ còn gặp rất nhiều khó khăn, thiếu thốn.
Một hôm, trời đã bắt đầu về chiều, tôi quyết định dừng chân nghỉ ở một ngôi làng nhỏ nằm sát ven rừng. Khung cảnh làng mạc xung quanh có vẻ tiêu điều, xơ xác. Cây cối chẳng mấy xanh tốt, đồng ruộng khô cằn, có những mảnh ruộng đã chết cháy chỉ còn lơ thơ vài ngọn cỏ. Trên đường đi tôi gặp một cụ già nét mặt đăm chiêu lo lắng, đến gần cụ, tôi chào:
- Cháu chào cụ ạ. Cụ ơi ở đây có ngôi nhà nào có thể ở trọ qua đêm được không ạ?
Cụ già nhìn tôi, đáp:
- Trước đây thì cũng có đấy nhưng mấy năm nay hạn hán kéo dài, cuộc sống đói khổ nhiều người chẳng còn làm ăn được nữa, và nhiều người đã bỏ làng đi tìm nơi khác.
Nói xong cụ già giơ tay chỉ ra mấy cánh đồng trước mặt, nói tiếp:
- Đấy cả nhà tôi trông vào ruộng lúa này mà nay chỉ còn trơ vài ngọn cỏ, chẳng biết từ nay nhà tôi lấy gì mà ăn nữa.
Nói đoạn ông hỏi tôi:
- Thế cậu từ đâu đến mà lại lạc vào xứ này, có lẽ đã lâu lắm rồi chẳng còn ai dám đến làng ta chơi nữa. Thôi cậu hãy vào nhà ta nghỉ tạm một đêm, mai hãy đi tiếp.
Tôi theo lão nông về nhà, ngôi nhà nhỏ của lão nằm nép bên chân núi, nhìn từ xa chẳng khác gì mộ túp lều.
Nhìn gia cảnh nghèo nàn của lão tôi vô cùng ái ngại, tôi nói với lão:
- Cháu có thể giúp làng ông có nước để tưới cho cây khỏi chết khô.
Nghe tôi nói vậy, ông lão nhìn tôi tỏ vẻ nghi ngờ, nhưng sau khi thấy tôi quả quyết lão vô cùng sung sướng. Lão lật đật chạy vào làng thông báo cho tất cả mọi người. Chỉ một loáng sau tất cả già trẻ gái trai đã đến tụ tập đầy trước nhà ông lão. Nhìn họ ai cũng đói rách, khốn khổ.
Tôi liền đưa bút vẽ mấy nét một con sông đã hiện ra trước mắt nước trong veo và muốn cho dân làng có cái ăn tôi lại chấm mấy cái thế là hàng đàn cá tung tăng bơi lội.
Bà con vô cùng mừng rỡ, họ gọi nhau đi bắt cá và ai nấy còn thức gì có thể ăn được đều đem đến nấu chung để cả làng liên hoan một bữa no say.
Đêm đó tôi tâm sự với ông lão về cuộc sống trước đây của tôi, ông lão tỏ ra vô cùng thương xót và cảm thông, lão nói:
- Nhà ta cũng chẳng giàu có gì nhưng cháu hãy ở đây làm con nuôi của ta, hai cha con ta chịu khó làm lụng cũng có thể đủ sống.
Dù rất quý ông lão nhưng tôi vẫn không thể ở lại, vì tôi hiểu rằng còn có rất nhiều hoàn cảnh khó khăn, họ sẽ cần đến cây bút thần của tôi.
Sáng hôm sau, từ biệt ông lão tôi lại rong ruổi trên đường, mong cứu giúp được nhiều hơn những con người nghèo khổ.
bạn xem thử nhé.:
Ta là Rùa Vàng, một vị quan dưới trướng Lạc Long Quân. Hôm ấy, trong lúc ta đang ghi chép sổ sách trong thư phòng thì được tin Đức Long Quân triệu kiến gấp. Ta bèn tức tốc vâng mệnh, đến điện gặp Ngài. Vừa tới nơi ta đã nghe giọng nói như sấm rền của Long Quân:
- Ngày mai, lúc Lê Lợi cưỡi thuyền rồng trên hồ Tả Vọng dạo chơi, ngươi hãy nổi lên đòi lại thanh gươm thần cho ta.
Vâng mệnh Long Quân ta lui về thư phòng, chuẩn bị ngày mai thực thi mệnh lệnh.
Nhớ lại năm xưa, vào thời giặc Minh đặt ách đô hộ ở nước Nam, nhân dân cực khổ vô cùng. Bởi bọn giặc vô cùng hung ác, chúng coi người dân như cô rác, làm, nhiều điều bạo ngược, thiên hạ ai ai cũng căm giận đến tận xương tuỷ. Bấy giờ ở vùng Lam Sơn, nghĩa quân nổi dậy chống lại chúng. Nhưng trong buổi đầu thế lực còn non yếu nên đã nhiều lần thất bại. Thấy vậy, để giữ đúng lời hứa với nàng Âu Cơ năm xưa “khi có việc cần thì giúp đỡ lẫn nhau”, Đức Long Quân đã quyết định cho nghĩa quân mượn thanh gươm thần Ngài vẫn đeo bên người để con cháu đánh đuổi giặc ngoại xâm, giành lại đất nước. Lúc đó chính ta là người mang gươm cho nghĩa quân mượn.
Ta đã tìm hiểu rất kĩ và biết rằng ờ vùng Thanh Hoá có một người đánh cá tên là Lệ Thận, tính tình hiền lành, chất phác, sau này sẽ tham gia nghĩa quân nên ta quyết định chọn chàng làm sứ giả trao gươm báu.
Như thường lệ, vào một đêm trăng sáng, gió thổi mát lạnh, Lê Thận đem lưới thả xuống sông bắt cá. Đã chờ sẵn từ lâu, ta bí mật bỏ lưỡi gươm vào trong lưới của anh ta. Lúc kéo lưới lên, thấy nằng nặng, chàng đã mừng thầm, chắc hẳn là có cá to. Nhưng khi thò tay xuống chẳng thấy cá đâu mà chỉ thấy gươm báu dưới dạng một thanh sắt chàng, bèn vứt đi và lại thả lưới tiếp. Phải vất vả ba lần ta mới khiến anh chàng nhận ra đó là lưỡi gươm và chịu mang về.
Quả nhiên, về sau Lê Thận gia nhập đoàn quân khởi nghĩa Lam Sơn. Chàng hăng hái, gan dạ, không nề nguy hiểm. Vì vậy, một hôm chủ tướng Lê Lợi cùng mấy tuỳ tòng đến nhà Thận. Thanh gươm thần gặp được chủ tướng nên tự động sáng rực lên trong túp lều tối om. Lấy làm lạ, Lê Lợi cầm lên xem và thấy hai chả “Thuận Thiên” khắc sâu vào lưỡi gươm. Song chuyện đó cũng nhanh chóng bị quên đi, không ai biết đó là báu vật.
Cho tới một hôm, bị giặc đuổi, Lê Lợi và các tướng sĩ rút lui mỗi người một ngã. Lúc chạy ngang qua một khu rừng, Lê Lợi bỗng thấy có ánh sáng trên ngọn cậy đa. Ông trèo lên mới biết đó là một chuôi gươm nạm ngọc (Đó chính là phẩn chuôi của thanh gươm thần vốn do Đức bà Âu Cơ cất giữ. Người cho chim thần đem đến đặt trên ngọn đa). Lê Lợi nhớ đến phần lưỡi gươm ở nhà Lê Thận bèn lấy chuôi gươm giắt vào lưng.
Ba ngày sau, khi gặp lại mọi người trong nhà Thận, Lê Lợi bèn đem chuyện bắt được chuôi gươm kể lại cho họ nghe. Và khi đem lưỡi gươm tra vào chuôi thì vừa như in.
Lê Thận bèn nâng gươm lên ngang đầu, cung kính nói với mọi người:
- Đây là ý trời phó thác cho minh công làm việc lớn. Chúng tôi nguyện đem xương thịt của mình theo minh công, cùng thanh gươm thần này để báo đền Tổ quốc!
Đến đây, nhiệm vụ của ta đã hoàn thành, thanh gươm thần đã được đặt vào đúng vào vị trí của nó.
Thế mà cũng đã một năm trôi qua rồi. Qủa nhiên từ khi có thanh gươm thần giúp sức, nhuệ khí cùa nghĩa quân ngày một tăng mạnh, liên tiếp giành được thắng lợi, làm cho quân Minh bạt vía, kinh hồn. Lê Lợi giờ đã lên làm vua, lấy hiệu là Lê Thái Tổ.
Miên man trong những kỉ niệm của một năm trước, ta không ngờ trời đã sáng. Ta liền vội vã lên đường, thực hiện nhiệm vụ mà Long Quân giao. Kia rồi! Đoàn thuyền rồng đã hiện ra trước mắt. Ta từ từ nổi lên mặt nước và bơi ra đón truớc mũi thuyền. Ta cất giọng chậm rãi: “Xin bệ hạ hoàn gươm lại cho Long Quân”.
Sau khi nghe ta nói, Lê Lợi nâng guơm hướng về phía ta và nói: “Xin Thần Kim Quy về báo lại với Đức Long Quân rằng Lê Lợi thay mặt muôn dân kính cẩn đội ơn Ngài đã cho mượn gươm báu giúp dân, giúp nước. Xin cho chúng dân đổi tên hồ này thành hồ Hoàn Kiếm để đời đời nhớ đến công đức của Ngài”. Nghe xong, ta bèn ngậm gươm thần rồi lặn xuống nước.
Trở về Long Cung, ta tâu lại những điều Lê Lợi đã nói với Long Quân. Người rất vui và hài lòng. Người giao cho ta nhiệm vụ hàng năm nổi lên mặt hồ một lần để xem xét dân tình, kịp thời báo cho người khi con cháu lâm nguy. Rùa Thần ta rất đỗi vinh hạnh nhận sứ mệnh cao cả đó.
Ta là Rùa Vàng, một vị quan dưới trướng Lạc Long Quân. Hôm ấy, trong lúc ta đang ghi chép sổ sách trong thư phòng thì được tin Đức Long Quân triệu kiến gấp. Ta bèn tức tốc vâng mệnh, đến điện gặp Ngài. Vừa tới nơi ta đã nghe giọng nói như sấm rền của Long Quân:
- Ngày mai, lúc Lê Lợi cưỡi thuyền rồng trên hồ Tả Vọng dạo chơi, ngươi hãy nổi lên đòi lại thanh gươm thần cho ta.
Vâng mệnh Long Quân ta lui về thư phòng, chuẩn bị ngày mai thực thi mệnh lệnh.
Nhớ lại năm xưa, vào thời giặc Minh đặt ách đô hộ ở nước Nam, nhân dân cực khổ vô cùng. Bởi bọn giặc vô cùng hung ác, chúng coi người dân như cô rác, làm, nhiều điều bạo ngược, thiên hạ ai ai cũng căm giận đến tận xương tuỷ. Bấy giờ ở vùng Lam Sơn, nghĩa quân nổi dậy chống lại chúng. Nhưng trong buổi đầu thế lực còn non yếu nên đã nhiều lần thất bại. Thấy vậy, để giữ đúng lời hứa với nàng Âu Cơ năm xưa “khi có việc cần thì giúp đỡ lẫn nhau”, Đức Long Quân đã quyết định cho nghĩa quân mượn thanh gươm thần Ngài vẫn đeo bên người để con cháu đánh đuổi giặc ngoại xâm, giành lại đất nước. Lúc đó chính ta là người mang gươm cho nghĩa quân mượn.
Ta đã tìm hiểu rất kĩ và biết rằng ờ vùng Thanh Hoá có một người đánh cá tên là Lệ Thận, tính tình hiền lành, chất phác, sau này sẽ tham gia nghĩa quân nên ta quyết định chọn chàng làm sứ giả trao gươm báu.
Như thường lệ, vào một đêm trăng sáng, gió thổi mát lạnh, Lê Thận đem lưới thả xuống sông bắt cá. Đã chờ sẵn từ lâu, ta bí mật bỏ lưỡi gươm vào trong lưới của anh ta. Lúc kéo lưới lên, thấy nằng nặng, chàng đã mừng thầm, chắc hẳn là có cá to. Nhưng khi thò tay xuống chẳng thấy cá đâu mà chỉ thấy gươm báu dưới dạng một thanh sắt chàng, bèn vứt đi và lại thả lưới tiếp. Phải vất vả ba lần ta mới khiến anh chàng nhận ra đó là lưỡi gươm và chịu mang về.
Quả nhiên, về sau Lê Thận gia nhập đoàn quân khởi nghĩa Lam Sơn. Chàng hăng hái, gan dạ, không nề nguy hiểm. Vì vậy, một hôm chủ tướng Lê Lợi cùng mấy tuỳ tòng đến nhà Thận. Thanh gươm thần gặp được chủ tướng nên tự động sáng rực lên trong túp lều tối om. Lấy làm lạ, Lê Lợi cầm lên xem và thấy hai chả “Thuận Thiên” khắc sâu vào lưỡi gươm. Song chuyện đó cũng nhanh chóng bị quên đi, không ai biết đó là báu vật.
Cho tới một hôm, bị giặc đuổi, Lê Lợi và các tướng sĩ rút lui mỗi người một ngã. Lúc chạy ngang qua một khu rừng, Lê Lợi bỗng thấy có ánh sáng trên ngọn cậy đa. Ông trèo lên mới biết đó là một chuôi gươm nạm ngọc (Đó chính là phẩn chuôi của thanh gươm thần vốn do Đức bà Âu Cơ cất giữ. Người cho chim thần đem đến đặt trên ngọn đa). Lê Lợi nhớ đến phần lưỡi gươm ở nhà Lê Thận bèn lấy chuôi gươm giắt vào lưng.
Ba ngày sau, khi gặp lại mọi người trong nhà Thận, Lê Lợi bèn đem chuyện bắt được chuôi gươm kể lại cho họ nghe. Và khi đem lưỡi gươm tra vào chuôi thì vừa như in.
Lê Thận bèn nâng gươm lên ngang đầu, cung kính nói với mọi người:
- Đây là ý trời phó thác cho minh công làm việc lớn. Chúng tôi nguyện đem xương thịt của mình theo minh công, cùng thanh gươm thần này để báo đền Tổ quốc!
Đến đây, nhiệm vụ của ta đã hoàn thành, thanh gươm thần đã được đặt vào đúng vào vị trí của nó.
Thế mà cũng đã một năm trôi qua rồi. Qủa nhiên từ khi có thanh gươm thần giúp sức, nhuệ khí cùa nghĩa quân ngày một tăng mạnh, liên tiếp giành được thắng lợi, làm cho quân Minh bạt vía, kinh hồn. Lê Lợi giờ đã lên làm vua, lấy hiệu là Lê Thái Tổ.
Miên man trong những kỉ niệm của một năm trước, ta không ngờ trời đã sáng. Ta liền vội vã lên đường, thực hiện nhiệm vụ mà Long Quân giao. Kia rồi! Đoàn thuyền rồng đã hiện ra trước mắt. Ta từ từ nổi lên mặt nước và bơi ra đón truớc mũi thuyền. Ta cất giọng chậm rãi: “Xin bệ hạ hoàn gươm lại cho Long Quân”.
Sau khi nghe ta nói, Lê Lợi nâng guơm hướng về phía ta và nói: “Xin Thần Kim Quy về báo lại vói Đức Long Quân rằng Lê Lợi thay mặt muôn dân kính cẩn đội ơn Ngài đã cho mượn gươm báu giúp dân, giúp nước. Xin cho chúng dân đổi tên hồ này thành hồ Hoàn Kiếm để đời đời nhớ đến công đức của Ngài”. Nghe xong, ta bèn ngậm gươm thần rồi lặn xuống nước.
Trở về Long Cung, ta tâu lại những điều Lê Lợi đã nói với Long Quân. Người rất vui và hài lòng. Người giao cho ta nhiệm vụ hàng năm nổi lên mặt hồ một lần để xem xét dân tình, kịp thời báo cho người khi con cháu lâm nguy. Rùa Thần ta rất đỗi vinh hạnh nhận sứ mệnh cao cả đó.
Ngày xưa có một em bé tên là Mã Lương. Mồ côi (cả cha lẫn mẹ đều mất sớm). Em cắt cỏ, kiêm củi… để nuôi thân. Em rất thông minh và yêu thích hội họa. Em võ đẹp. Chỉ lấy que, lấy ngón tay làm bút vẽ. Em vẽ chim, vẽ cá giống như hệt, ai cũng tưởng như được nghe chim hót, được trông thấy cá bơi lội… Em chỉ mong sao có được một cây bút vẽ.
Thế rồi, một đêm em nằm mơ thấy một cụ già râu tóc bạc phơ, đưa cho em một cây bút vẽ và bảo: "Đây là cây bút thần, nó sẽ giúp con nhiều". Em sung sướng nhìn cây bút khẽ nói: "Cháu cảm ơn ông! Cảm ơn ông!". Mã Lương chợt tỉnh giấc thì cụ già đã biến mất, nhưng cây bút bằng vàng sáng lấp lánh vẫn còn nằm trong tay.
Từ đấy trở đi, nhờ có cây bút thần, tài nghệ của Mã Lương phát triển một cách kì diệu. Em vẽ chim thì chim biết hót, biết bay. Em vẽ cá thì cá tung tăng bơi lội. Rồi em vẽ cày, vẽ cuốc, vẽ đèn, vẽ thùng múc nước… giúp bà con nghèo có dụng cụ làm ăn. Dân làng hết lời ca ngợi em.
Gần miền có một tên địa chủ tham lam, độc ác sai hai tên tôi tớ đến bắt Mã Lương đưa về nhà, ép em phải vẽ theo ý muốn của hắn. Em không thèm vẽ cho hắn. Dụ dỗ, dọa nạt không được, hắn giam em vào chuồng ngựa với ác ý làm cho em chết đói. Ba hôm sau, tuyết phủ đầy trời đất. Tên địa chủ tin rằng em sắp chết rét. Nửa đêm, hắn lò mò đến chuồng ngựa, hắn vô cùng sửng sốt thấy Mã Lương đang ngồi sưởi trước bếp hồng và đang ăn bánh nướng! Vô cùng tức tôi, hắn trở về nhà kéo bọn gia nhận đến để giết Mã Lương và ăn cướp cây bút thần. Mã Lương đã trôn mất, chỉ còn lại một chiếc thang. Tên địa chủ vừa leo lên ba bậc thì bị ngã xuống đất như bị trời giáng. Mã Lương vẽ ngựa, dùng ngựa phóng như bay, chạy trốn. Tên địa chủ cùng một đoàn tôi tớ gươm giáo sáng loáng, phóng ngựa đuổi theo. Mã Lương vẽ cung tên làm vũ khí bắn trúng họng tên địa chủ độc ác.
Chạy trốn đến một thị trấn nhỏ, Mã Lương vẽ tranh để bán lấy tiền sinh sông. Cũng vẽ chim, vẽ cá… nhưng con thì thiếu mắt, con thì thiếu chân… Một hôm, em vẽ cò trắng, vô ý làm rơi một giọt mực xuống bức tranh. Con cò đủ mắt, bỗng cất cánh bay lên… Chuyện lạ ấy đến tai nhà vua. Mã Lương bị triệu đôn hoàng cung. Vốn căm ghét tên bạo chúa, Mã Lương đã phản kháng lại. Vua bảo vẽ rồng thì em vẽ cóc ghẻ, vua bắt vẽ phượng thì em vẽ gà trụi lông. Cóc, gà vừa xấu xí, vừa bẩn thỉu. Nhà vua tước mất cây bút thần của em. Hắn tham lam vẽ núi vàng, thì núi vàng thành núi đá, vẽ thỏi vàng dài thì thỏi vàng hóa thành con mãng xà, miệng há hốc, đỏ lòm. Nhà vua suýt nữa bỏ mạng. Nhà vua tìm mọi cách mua chuộc, hứa gả công chúa và trả lại bút thần cho Mã Lương. Vua sai Mã Lương vẽ biển, rồi vẽ thuyền có cánh buồm để du ngoạn. Vua, hoàng hậu, các công chúa, hoàng tử và bọn đại thần kéo nhau xuống thuyền. Biển gợn sóng, gió thổi nhẹ, thuyền từ từ ra khơi. Nhà vua đòi Mã Lương vẽ cho gió to thêm. Mã Lương vẽ và vẽ, gió mạnh thổi một lúc một mạnh, biển nổi sóng dữ dội nhấn chìm thuyền nhà vua xuống đáy biển.
Sau sự kiện chấn động ấy, đìu chuyện về Mã Lường và cây bút thần đồn đại khắp nơi. Nhưng Mã Lương cũng đã đi đâu mất…
Ngày xưa có một em bé tên là Mã Lương. Mồ côi (cả cha lẫn mẹ đều mất sớm). Em cắt cỏ, kiêm củi… để nuôi thân. Em rất thông minh và yêu thích hội họa. Em võ đẹp. Chỉ lấy que, lấy ngón tay làm bút vẽ. Em vẽ chim, vẽ cá giống như hệt, ai cũng tưởng như được nghe chim hót, được trông thấy cá bơi lội… Em chỉ mong sao có được một cây bút vẽ.
Thế rồi, một đêm em nằm mơ thấy một cụ già râu tóc bạc phơ, đưa cho em một cây bút vẽ và bảo: "Đây là cây bút thần, nó sẽ giúp con nhiều". Em sung sướng nhìn cây bút khẽ nói: "Cháu cảm ơn ông! Cảm ơn ông!". Mã Lương chợt tỉnh giấc thì cụ già đã biến mất, nhưng cây bút bằng vàng sáng lấp lánh vẫn còn nằm trong tay.
Từ đấy trở đi, nhờ có cây bút thần, tài nghệ của Mã Lương phát triển một cách kì diệu. Em vẽ chim thì chim biết hót, biết bay. Em vẽ cá thì cá tung tăng bơi lội. Rồi em vẽ cày, vẽ cuốc, vẽ đèn, vẽ thùng múc nước… giúp bà con nghèo có dụng cụ làm ăn. Dân làng hết lời ca ngợi em.
Gần miền có một tên địa chủ tham lam, độc ác sai hai tên tôi tớ đến bắt Mã Lương đưa về nhà, ép em phải vẽ theo ý muốn của hắn. Em không thèm vẽ cho hắn. Dụ dỗ, dọa nạt không được, hắn giam em vào chuồng ngựa với ác ý làm cho em chết đói. Ba
Ngày xưa có một em bé tên là Mã Lương. Mồ côi (cả cha lẫn mẹ đều mất sớm). Em cắt cỏ, kiêm củi… để nuôi thân. Em rất thông minh và yêu thích hội họa. Em võ đẹp. Chỉ lấy que, lấy ngón tay làm bút vẽ. Em vẽ chim, vẽ cá giống như hệt, ai cũng tưởng như được nghe chim hót, được trông thấy cá bơi lội… Em chỉ mong sao có được một cây bút vẽ.
Thế rồi, một đêm em nằm mơ thấy một cụ già râu tóc bạc phơ, đưa cho em một cây bút vẽ và bảo: "Đây là cây bút thần, nó sẽ giúp con nhiều". Em sung sướng nhìn cây bút khẽ nói: "Cháu cảm ơn ông! Cảm ơn ông!". Mã Lương chợt tỉnh giấc thì cụ già đã biến mất, nhưng cây bút bằng vàng sáng lấp lánh vẫn còn nằm trong tay.
Từ đấy trở đi, nhờ có cây bút thần, tài nghệ của Mã Lương phát triển một cách kì diệu. Em vẽ chim thì chim biết hót, biết bay. Em vẽ cá thì cá tung tăng bơi lội. Rồi em vẽ cày, vẽ cuốc, vẽ đèn, vẽ thùng múc nước… giúp bà con nghèo có dụng cụ làm ăn. Dân làng hết lời ca ngợi em.
Gần miền có một tên địa chủ tham lam, độc ác sai hai tên tôi tớ đến bắt Mã Lương đưa về nhà, ép em phải vẽ theo ý muốn của hắn. Em không thèm vẽ cho hắn. Dụ dỗ, dọa nạt không được, hắn giam em vào chuồng ngựa với ác ý làm cho em chết đói. Ba
Ngày xưa có một em bé tên là Mã Lương. Mồ côi (cả cha lẫn mẹ đều mất sớm). Em cắt cỏ, kiêm củi… để nuôi thân. Em rất thông minh và yêu thích hội họa. Em võ đẹp. Chỉ lấy que, lấy ngón tay làm bút vẽ. Em vẽ chim, vẽ cá giống như hệt, ai cũng tưởng như được nghe chim hót, được trông thấy cá bơi lội… Em chỉ mong sao có được một cây bút vẽ.
Thế rồi, một đêm em nằm mơ thấy một cụ già râu tóc bạc phơ, đưa cho em một cây bút vẽ và bảo: "Đây là cây bút thần, nó sẽ giúp con nhiều". Em sung sướng nhìn cây bút khẽ nói: "Cháu cảm ơn ông! Cảm ơn ông!". Mã Lương chợt tỉnh giấc thì cụ già đã biến mất, nhưng cây bút bằng vàng sáng lấp lánh vẫn còn nằm trong tay.
Từ đấy trở đi, nhờ có cây bút thần, tài nghệ của Mã Lương phát triển một cách kì diệu. Em vẽ chim thì chim biết hót, biết bay. Em vẽ cá thì cá tung tăng bơi lội. Rồi em vẽ cày, vẽ cuốc, vẽ đèn, vẽ thùng múc nước… giúp bà con nghèo có dụng cụ làm ăn. Dân làng hết lời ca ngợi em.
Gần miền có một tên địa chủ tham lam, độc ác sai hai tên tôi tớ đến bắt Mã Lương đưa về nhà, ép em phải vẽ theo ý muốn của hắn. Em không thèm vẽ cho hắn. Dụ dỗ, dọa nạt không được, hắn giam em vào chuồng ngựa với ác ý làm cho em chết đói. Ba
Ngày xưa có một em bé tên là Mã Lương. Mồ côi (cả cha lẫn mẹ đều mất sớm). Em cắt cỏ, kiêm củi… để nuôi thân. Em rất thông minh và yêu thích hội họa. Em võ đẹp. Chỉ lấy que, lấy ngón tay làm bút vẽ. Em vẽ chim, vẽ cá giống như hệt, ai cũng tưởng như được nghe chim hót, được trông thấy cá bơi lội… Em chỉ mong sao có được một cây bút vẽ.
Thế rồi, một đêm em nằm mơ thấy một cụ già râu tóc bạc phơ, đưa cho em một cây bút vẽ và bảo: "Đây là cây bút thần, nó sẽ giúp con nhiều". Em sung sướng nhìn cây bút khẽ nói: "Cháu cảm ơn ông! Cảm ơn ông!". Mã Lương chợt tỉnh giấc thì cụ già đã biến mất, nhưng cây bút bằng vàng sáng lấp lánh vẫn còn nằm trong tay.
Từ đấy trở đi, nhờ có cây bút thần, tài nghệ của Mã Lương phát triển một cách kì diệu. Em vẽ chim thì chim biết hót, biết bay. Em vẽ cá thì cá tung tăng bơi lội. Rồi em vẽ cày, vẽ cuốc, vẽ đèn, vẽ thùng múc nước… giúp bà con nghèo có dụng cụ làm ăn. Dân làng hết lời ca ngợi em.
Gần miền có một tên địa chủ tham lam, độc ác sai hai tên tôi tớ đến bắt Mã Lương đưa về nhà, ép em phải vẽ theo ý muốn của hắn. Em không thèm vẽ cho hắn. Dụ dỗ, dọa nạt không được, hắn giam em vào chuồng ngựa với ác ý làm cho em chết đói. Ba hôm sau, tuyết phủ đầy trời đất. Tên địa chủ tin rằng em sắp chết rét. Nửa đêm, hắn lò mò đến chuồng ngựa, hắn vô cùng sửng sốt thấy Mã Lương đang ngồi sưởi trước bếp hồng và đang ăn bánh nướng! Vô cùng tức tôi, hắn trở về nhà kéo bọn gia nhận đến để giết Mã Lương và ăn cướp cây bút thần. Mã Lương đã trôn mất, chỉ còn lại một chiếc thang. Tên địa chủ vừa leo lên ba bậc thì bị ngã xuống đất như bị trời giáng. Mã Lương vẽ ngựa, dùng ngựa phóng như bay, chạy trốn. Tên địa chủ cùng một đoàn tôi tớ gươm giáo sáng loáng, phóng ngựa đuổi theo. Mã Lương vẽ cung tên làm vũ khí bắn trúng họng tên địa chủ độc ác.
Chạy trốn đến một thị trấn nhỏ, Mã Lương vẽ tranh để bán lấy tiền sinh sông. Cũng vẽ chim, vẽ cá… nhưng con thì thiếu mắt, con thì thiếu chân… Một hôm, em vẽ cò trắng, vô ý làm rơi một giọt mực xuống bức tranh. Con cò đủ mắt, bỗng cất cánh bay lên… Chuyện lạ ấy đến tai nhà vua. Mã Lương bị triệu đôn hoàng cung. Vốn căm ghét tên bạo chúa, Mã Lương đã phản kháng lại. Vua bảo vẽ rồng thì em vẽ cóc ghẻ, vua bắt vẽ phượng thì em vẽ gà trụi lông. Cóc, gà vừa xấu xí, vừa bẩn thỉu. Nhà vua tước mất cây bút thần của em. Hắn tham lam vẽ núi vàng, thì núi vàng thành núi đá, vẽ thỏi vàng dài thì thỏi vàng hóa thành con mãng xà, miệng há hốc, đỏ lòm. Nhà vua suýt nữa bỏ mạng. Nhà vua tìm mọi cách mua chuộc, hứa gả công chúa và trả lại bút thần cho Mã Lương. Vua sai Mã Lương vẽ biển, rồi vẽ thuyền có cánh buồm để du ngoạn. Vua, hoàng hậu, các công chúa, hoàng tử và bọn đại thần kéo nhau xuống thuyền. Biển gợn sóng, gió thổi nhẹ, thuyền từ từ ra khơi. Nhà vua đòi Mã Lương vẽ cho gió to thêm. Mã Lương vẽ và vẽ, gió mạnh thổi một lúc một mạnh, biển nổi sóng dữ dội nhấn chìm thuyền nhà vua xuống đáy biển.
Sau sự kiện chấn động ấy, đìu chuyện về Mã Lường và cây bút thần đồn đại khắp nơi. Nhưng Mã Lương cũng đã đi đâu mất…
1. Phần Mở hài (Giới thiệu câu chuyện)
- Tôi tên là Lê Mã Lương.
- Cha mẹ tôi mất sớm. Vì vậy, tôi phải đốn củi, cắt cỏ kiếm sống qua ngày, nhưng vẫn nghèo đến mức không có tiền mua một cây bút.
- Tôi rất thích vẽ nên hằng ngày tôi chăm chỉ luyện tập. Khi đi kiếm củi trên núi, tôi lấy que củi làm bút để vẽ những con chim đang bay. Lúc cắt cỏ bên sông, tôi lấy tay nhúng xuống nước rồi vẽ tôm cá đang bơi lội. Về nhà, tôi vẽ các đồ đạc trong nhà.
- Năm tháng trôi qua, tôi không ngừng học vẽ. Tôi vẽ chim cá giống như hệt. Thế nhưng tôi vẫn chưa có được một cây bút vẽ. Tôi ao ước có một cây bút để tôi vẽ những gì mình thích.
2. Phần Thân bài (Biễn biến sự việc)
a). Giấc mơ kì diệu
Một đêm, tôi nằm ngủ rất say. Trong giấc ngủ, chợt tôi thấy một cụ già râu tóc bạc phơ hiện ra trước mặt, đưa cho tôi một cây bút và nói: “Đây là cây bút thần, nó sẽ giúp con nhiều”.
- Trong mơ, tôi nhìn cây bút bằng vàng sáng lấp lánh và sung sướng reo lớn: “Cây bút đẹp quá! Cháu cảm ơn ông! Cảm ơn ông!..”
- Tôi nói chưa dứt lời thì cụ già biến mất. Tôi giật mình tính dậy mới biết là mình nằm mơ.
- Nhưng tôi lấy làm lạ là cây bút thần vẫn nằm trong tay tôi. Đúng là tôi đã có một giấc mơ kì diệu.
b). Giúp người nghèo
- Tôi lấy bút ra vẽ một con chim. Chim tung cánh bay lên trời hót líu lo. Tôi vẽ tiếp một con cá. Cá vẫy đuôi trườn xuống sông, bơi lội trước mắt tôi. Tôi thích thú vô cùng.
- Tôi dùng cây bút thần vẽ giúp cho tất cả những người nghèo trong vùng. Nhà nào không có cày, tôi vẽ cày cho. Nhà nào không có cuốc, tỏi vẽ cuốc cho. Nhà nào không có đòn, tôi vẽ cho đòn,...
c). Trừng trị lên địa chủ tham lam
- Việc tôi có cây bút thần lọt tới tai một tên địa chủ giàu có trong vùng. Hắn sai dầy tớ tới bắt tôi và nói tôi phải vẽ cho hắn những gì hắn muốn.
- Biết đó là tên địa chủ tham lam nên tôi không vẽ cho hắn bất cứ thứ gì.
- Hắn tức giận nhốt tôi vào chuồng ngựa không cho tôi ăn uống gì.
- Hắn cho người đến chuồng ngựa xem tôi đã chết hay còn sống. Hắn nào ngờ, nhờ có cây bút thần mà tôi có lò lửa rực hồng để sưởi và có bánh nướng thơm ngào ngạt để ăn.
- Đoán trước thế nào tên địa chủ tham lam cũng sẽ giết tôi nên tôi dùng cây bút thần vẽ một cái thang và trốn ra khỏi chuồng ngựa.
- Thoát khỏi nhà tên địa chủ, tỏi vẽ một con ngựa và cưỡi lên phi nhanh.
- Đi chưa được bao xa, tôi nghe tiếng huyên náo phía sau. Quay lại nhìn, tôi thấy tên địa chủ tay vung đao sáng loáng. Đằng sau tên địa chủ có khoảng hai mươi tên khác.
- Chờ cho bọn chúng đến gần, tôi rút bút thần ra vẽ chiếc cung và mũi tên. Tôi dương cung bắn. Mũi tên lao đúng họng tên địa chủ. Hắn ngã nhào xuống đất. Tôi ra roi thúc ngựa. Ngựa tung vó phi như bay.
d). Trừng trị tên vua tham lam độc ác
- Tôi dừng chân ở một thị trấn nhỏ. Không có việc làm, tôi đành vẽ tranh bán. Sợ lộ, nên khi vẽ, tôi cố tình vẽ thiếu một chi tiết trong tranh, nên tất cả các tranh đều dỡ dang không biến thành đồ vật hoặc con vật thật được.
- Một lần, vẽ tranh con cò, tôi cố tình vẽ thiếu một con mắt. Nào ngờ, do sơ ý, tôi để một giọt mực rơi xuống đúng vào chỗ mắt cò. Thế là cò vỗ cánh bay lên. Chuyện đó làm chấn động cả thị trấn. Rồi có kẻ tố giác với vua. Vua cho lính tới đón tôi về kinh đô.
- Được biết đây là một tên vua gian ác tham lam nên tôi không vẽ những điều vua muốn mà vẽ những thứ ngược lại. Ví dụ, vua bắt tôi vẽ con rồng, tôi vẽ một con cóc ghẻ. Vua bắt tôi vẽ con phượng, tôi vẽ con gà trụi lông...
- Vua lấy bút thần của tôi để tự vẽ. Vua vẽ một dãy núi vàng nhưng chắng thấy vàng dâu chỉ thấy một dãy núi đá. Đá từ trên đĩnh núi lăn xuống, suýt đè gãy chân vua.
- Không từ lòng tham, vua lại vẽ tiếp từng thỏi vàng nối nhau. Nào ngờ, khi nhìn lại, chẳng thấy vàng đâu cả, chỉ thấy một con mãng xà dài, miệng há hốc, đỏ lòm đang bổ lại phía nhà vua. May có triều thần xô tới cứu, nếu không mãng xà đã nuôt chửng vua.
- Biết không có tôi thì bút thần chẳng hiệu nghiệm nên vua phải thả tôi ra hứa cho tôi rất nhiều vàng bạc và gả công chúa cho tôi. Tôi giả vờ đồng ý. Vua rất mừng và trả cây bút thần cho tôi.
- Nhà vua không bảo tôi vẽ núi nữa mà bảo tôi vẽ biển.
- Tôi chí cần đưa hai nét bút là biển cả mênh mông hiện ra, xanh biếc, không gợn sóng, trong như mặt gương soi.
- Vua bảo sao biển không có cá thế và tôi vẽ rất nhiều cá với đủ màu sắc.
- Vua bảo tôi vẽ một con thuyền, tôi cũng vẽ cho một chiếc thuyền buồm lớn. Vua, hoàng hậu, công chúa, hoàng tử và các quan đại thần kéo nhau xuống thuyền.
- Tôi đưa thêm vài nét bút, gió thổi lên nhè nhẹ, mặt biển nổi sóng lăn tần, thuyền từ từ ra khơi.
- Tôi nghe tiếng nhà vua kêu lớn: “Cho gió to thêm một tí! Cho gió to thêm một tí!”
- Tôi đưa thêm mấy nét bút nữa, sống biển liền nổi lên, buồm căng phồng, chiếc thuyền lao khỏi bờ nhanh vun vút.
- Tôi lại nghe tiếng kêu cuống quýt của nhà vua: “Đừng cho gió thổi nữa! Dừng cho gió thổi nữa!
- Tôi chẳng thèm đếm xĩa đến lời nói đó, tôi tiếp tục vẽ thêm những đường cong lớn. Biển động dữ dội... Chiếc thuyền ngả nghiêng rồi bị chôn vùi dưới lớp sóng hung dữ.
3. Phần Kết bài
- Sau khi tên vua tham lam và gian ác chết, tôi đi khắp mọi miền để giúp đở những người nghèo.
- Tôi sẽ tiếp tục dùng cây bút thần để trừng trị những ke tham lam độc ác như tên địa chủ, như nhà vua.
- Tôi thấy vui vì mình sống có ích cho mọi người.
Câu hỏi của Trần Thị Hoàn - Ngữ văn lớp 7 | Học trực tuyến
Nắng sớm mai dịu dàng chiếu sáng cả khu vườn.gió nhè nhẹ thổi.Tiếng chim ca líu lo cất lên chào buổi sáng.Tia nắng nghịch ngợm vui đùa trên cánh hoa hồng làm nổi bật một giọt sương long lanh còn đọng lại.
Hạt sương thấy mình thật đẹp!Trong suốt như pha lê,sáng long lanh như ngọc.Hạt sương ngước nhìn ánh mặt trời.giọt nước cất tiếng chào:
- Cháu chào Bác Mặt Trời!
- A giọt nước ! Chào cháu nhé!
- Bác có biết cháu đang nằm trên hoa gì không ạ ? - Hạt sương lễ phép hỏi
- Ô, đấy là Hoa Hồng. Con bé xinh đáo để, mà lại ngoan ngoãn nữa chứ. Thế nào, cháu định kết bạn với nó à? - Bácmặt trời hấp háy mắt hỏi.
- Vâng, thưa ông - Hạt sươnglúng túng - Nhưng cháu sợ bạn ấy từ chối.
- Đừng lo, cháu ạ. Hoa Hồngtốt bụng lắm, cháu cứ mạnh dan lên, đừng sợ.
- Vâng, cháu cảm ơn bác!
Sau đó em kể lại việc kết bạn của hoa hông và hạt sương kết hợp với việc hạt sương sợ mình tan dưới ánh mặt trời
Kết thúc là cả 2 hứa sẽ nhớ mãi là bạn và sẽ nhớ nhau suốt đời
Ngày xửa ngày xưa, có một cậu bé tên là Jack. Cậu sống với mẹ ở một ngôi nhà nhỏ trong làng. Gia đình Jack rất nghèo, tài sản duy nhất họ có là một con bò, mà nó đã già đến mức chẳng cho sữa được nữa. Một ngày kia, mẹ của Jack quyết định sẽ bán con bò đi. Mẹ bảo Jack mang con bò ra chợ phiên bán, cố gắng bán được giá tốt.
Trên đường đi ra chợ phiên, Jack gặp một ông già bí ẩn.Ông già nói:
– Ta sẽ đổi con bò của cháu lấy hạt đậu này.
– Sao cháu lại phải đổi cả con bò để lấy hạt đậu nhỏ xíu này?
– Đây không phải là hạt đậu thường đâu, mà là hạt đậu thần đó. Cháu hãy trồng nó vào tối nay và sáng mai nó sẽ mọc cao đến tận trời xanh.
– Điều này sao mà xảy ra được. Sao cháu phải tin lời ông chứ?
– Nếu lời ông nói mà không thành sự thật thì sáng mai ông sẽ trả lại con bò cho cháu
Jack không tin lời ông lão lạ mặt lắm, nhưng mà cậu cũng chả thấy mất gì nếu trao đổi với ông cả. Nên cậu đồng ý đổi con bò lấy hạt đậu thần như ông lão nói. Khi về nhà, mẹ cậu hỏi:
– Jack, con bán con bò được bao nhiêu tiền vậy?
– Con đã đổi nó lấy hạt đậu thần này mẹ ạ
– Sao vậy? Con dám đổi tài sản duy nhất nhà ta có lấy cái hạt đậu vô tích sự này sao? Sao con lại làm thế?
Mẹ của Jack rất giận dữ, bà mắng Jack và ném hạt đậu qua cửa sổ, hạt đậu rơi xuống khu vườn. Bà phạt Jack không được ăn tối hôm đó. Sáng hôm sau, khi Jack thức dậy và nhìn qua cửa sổ, cậu nhìn thấy một điều chưa bao giờ thấy trong đời. Một cái cây lạ lùng vươn lên cao tít đến tận trời xanh.
– Ôi, cái gì vậy?
– Có phải cây đậu thần của mình không?
Jack mừng rỡ trèo ra khỏi cửa sổ và nhảy sang cây đậu thần. “Ôi, lời của ông già đã trở thành sự thật rồi. Cây đã mọc đến tận trời cao rồi. Mình phải lên xem mới được”.
Jack tò mò leo lên trên cây. Leo mãi, leo mãi, cậu leo không ngừng. Leo đến hết ngày thì Jack đến tận trời. Trước mắt Jack lúc này là một khung cảnh kỳ diệu như trong mơ. giữa những đám mây trắng xóa là một tòa lâu đài nguy nga lộng lẫy. Jack mệt vì leo quá lâu, và cũng đói bụng vì cậu chưa ăn gì từ tối hôm qua, cậu gõ mạnh vào cánh cửa
– Xin chào, có ai ở đây không? Cháu có thể xin một ít đồ ăn được không ạ?
– Bỗng nhiên, cánh cửa lâu đài tự mở ra.
Jack ngạc nhiên, nhưng rồi cậu đánh bạo bước vào trong. Cảnh tượng bên trong rất lộng lẫy, đồ đạc sáng bóng. Jack đi đến căn bếp, cậu thấy có một lát bánh mì và một ít sữa. Cậu đói quá nên cầm lát bánh mì lên định ăn, thì cậu thấy có những tiếng động mạnh và cả tòa lâu đài rung lắc như trong cơn động đất vậy. Jack sợ hãi nấp dưới gầm bàn. Có một người khổng lồ dữ tợn bước vào phòng, trong tay ông ta có một túi vàng to. Hóa ra đây chính là lâu đài của người khổng lồ độc ác.
Người khổng lồ khịt mũi đánh hơi ầm ĩ. Fee, Fi, Fo, Fum, ta ngửi thấy có mùi người lạ. Hắn nhìn quanh tìm kiếm nhưng không thấy Jack vì chú quá bé và đang trốn dưới gầm bàn. Hắn tự nhủ “có lẽ đấy chỉ là mùi thịt gà tây mình ăn tối qua thôi”. Hắn ngáp dài mệt mỏi và quyết định đi ngủ. Người khổng lồ đặt túi vàng lên bàn rồi bỏ đi. Khi hắn ta ra khỏi phòng, Jack liền chui ra khỏi chỗ nấp và leo lên trên bàn. “Ôi, túi vàng mới to làm sao, mình sẽ giàu đây”.
Jack lấy túi vàng và nhảy khỏi cái bàn. Chú rón rén đi qua căn phòng, ra khỏi lâu đài của gã khổng lồ, và hết sức mang túi vàng đến chỗ cây đậu thần. Chú leo xuống cây đậu và mang túi vàng về cho mẹ. Chú kể với mẹ về chuyện cây đậu thần, về tòa lâu đài của gã khổng lồ và đưa mẹ xem túi vàng đã lấy được.
Vài hôm sau, Jack lại leo lên cây đậu thần để lên trên trời, quay lại chỗ tòa lâu đài hôm trước. Khi chú đang khám phá tòa lâu đài thì lại nghe thấy những bước chân rầm rầm của gã khổng lồ. Chú không kịp chạy đến nấp dưới gầm bàn, nên vội chui vào nấp trong tủ.Người khổng lồ mang một ổ gà mái ra trước cái tủ.
– Gà ơi, đẻ trứng vàng cho ta đi nào! Người khổng lồ nói. Úm ba la, trứng vàng nở ra.
Con gà kêu lên quang quác rồi mau mắn đẻ một quả trứng bằng vàng ròng. Người khổng lồ nhặt lấy quả trứng và đi ra khỏi phòng. Jack nhanh chóng ra khỏi chỗ nấp, chú lấy con gà và mang ra khỏi phòng, cố chạy thật nhanh trước khi người khổng lồ phát hiện ra. Jack mang con gà về nhà cho mẹ:
– Mẹ xem này, con gà này đẻ ra những quả trứng vàng thật đấy.
Chú bắt chước người khổng lồ nói “Gà ơi, đẻ trứng vàng cho ta đi nào! Úm ba la, trứng vàng nở ra”. Con gà kêu lên quang quác rồi lại đẻ ra một quả trứng bằng vàng ròng.
Mẹ Jack nói “jack, lấy trộm của người khác là không tốt đâu con. Con phải trao đổi một cách công bằng và sống lương thiện”
– Nhưng, mẹ xem, con gà này đẻ ra trứng vàng, mình sẽ không phải làm việc nữa mà vẫn đủ sống
Jack ngày càng trở nên tham lam, mỗi ngày chú lại quay lại tòa lâu đài và lấy trộm thêm nhiều đồ vật của người khổng lồ.
Một ngày kia, khi lẻn vào lâu đài, chú thấy người khổng lồ nói với cái đàn hạc:
– Úm ba la, hãy chơi nhạc cho ta.
Và cây đàn bỗng tự chơi những giai điệu du dương. Tiếng nhạc này làm ta buồn ngủ quá, ta phải đi ngủ thôi. Khi người khổng lồ về phòng ngủ, Jack lại trèo lên bàn và lấy trộm cây đàn hạc
Nhưng không ngờ, khi chú chạm tay vào cây đàn thì tiếng nhạc tự động vang lên. Cây đàn kêu lên: “ông chủ, ông chủ, có ai đang lấy trộm tôi”.
Nghe thấy tiếng cây đàn hạc kêu cứu, người khổng lồ thức dậy và bước ra khỏi phòng. Jack không kịp chạy trốn, cậu bị người khổng lồ bắt gặp với cây đàn trong tay.
– A, sao nhà ngươi dám ăn trộm cây đàn của ta? Chính là ngươi đã ăn trộm túi tiền vàng và con gà thần của ta, có đúng không?
Jack luồn qua chân người khổng lồ và cố sức chạy trốn. Người khổng lồ giận dữ đuổi theo. Jack sợ hãi trượt từ trên cây đậu xuống, cậu thấy tiếng gió rít bên tai mình. người khổng lồ cũng đang tụt xuống ngay sau lưng cậu.
Khi Jack chạm đất, cậu đi tìm ngay chiếc rìu và cố hết sức chặt cây đậu thần. Cây đậu bị đổ và ngã kềnh ra đất. Người khổng lồ bị tuột tay, rơi xuống đất và lăn ra chết.
Và Jack đã nhận được một bài học đích đáng, chú hiểu rằng không được tham lam lấy đồ của người khác, và phải lao động cần cù để có cuộc sống tốt đẹp.
Cậu bé Jack và cây đậu thần
Ngày xửa ngày xưa, có một cậu bé tên là Jack. Cậu sống với mẹ ở một ngôi nhà nhỏ trong làng. Gia đình Jack rất nghèo, tài sản duy nhất họ có là một con bò, mà nó đã già đến mức chẳng cho sữa được nữa. Một ngày kia, mẹ của Jack quyết định sẽ bán con bò đi. Mẹ bảo Jack mang con bò ra chợ phiên bán, cố gắng bán được giá tốt.
Trên đường đi ra chợ phiên, Jack gặp một ông già bí ẩn.Ông già nói:
– Ta sẽ đổi con bò của cháu lấy hạt đậu này.
– Sao cháu lại phải đổi cả con bò để lấy hạt đậu nhỏ xíu này?
– Đây không phải là hạt đậu thường đâu, mà là hạt đậu thần đó. Cháu hãy trồng nó vào tối nay và sáng mai nó sẽ mọc cao đến tận trời xanh.
– Điều này sao mà xảy ra được. Sao cháu phải tin lời ông chứ?
– Nếu lời ông nói mà không thành sự thật thì sáng mai ông sẽ trả lại con bò cho cháu
Jack không tin lời ông lão lạ mặt lắm, nhưng mà cậu cũng chả thấy mất gì nếu trao đổi với ông cả. Nên cậu đồng ý đổi con bò lấy hạt đậu thần như ông lão nói. Khi về nhà, mẹ cậu hỏi:
– Jack, con bán con bò được bao nhiêu tiền vậy?
– Con đã đổi nó lấy hạt đậu thần này mẹ ạ
– Sao vậy? Con dám đổi tài sản duy nhất nhà ta có lấy cái hạt đậu vô tích sự này sao? Sao con lại làm thế?
Mẹ của Jack rất giận dữ, bà mắng Jack và ném hạt đậu qua cửa sổ, hạt đậu rơi xuống khu vườn. Bà phạt Jack không được ăn tối hôm đó. Sáng hôm sau, khi Jack thức dậy và nhìn qua cửa sổ, cậu nhìn thấy một điều chưa bao giờ thấy trong đời. Một cái cây lạ lùng vươn lên cao tít đến tận trời xanh.
– Ôi, cái gì vậy?
– Có phải cây đậu thần của mình không?
Jack mừng rỡ trèo ra khỏi cửa sổ và nhảy sang cây đậu thần. “Ôi, lời của ông già đã trở thành sự thật rồi. Cây đã mọc đến tận trời cao rồi. Mình phải lên xem mới được”.
Jack tò mò leo lên trên cây. Leo mãi, leo mãi, cậu leo không ngừng. Leo đến hết ngày thì Jack đến tận trời. Trước mắt Jack lúc này là một khung cảnh kỳ diệu như trong mơ. giữa những đám mây trắng xóa là một tòa lâu đài nguy nga lộng lẫy. Jack mệt vì leo quá lâu, và cũng đói bụng vì cậu chưa ăn gì từ tối hôm qua, cậu gõ mạnh vào cánh cửa
– Xin chào, có ai ở đây không? Cháu có thể xin một ít đồ ăn được không ạ?
– Bỗng nhiên, cánh cửa lâu đài tự mở ra.
Jack ngạc nhiên, nhưng rồi cậu đánh bạo bước vào trong. Cảnh tượng bên trong rất lộng lẫy, đồ đạc sáng bóng. Jack đi đến căn bếp, cậu thấy có một lát bánh mì và một ít sữa. Cậu đói quá nên cầm lát bánh mì lên định ăn, thì cậu thấy có những tiếng động mạnh và cả tòa lâu đài rung lắc như trong cơn động đất vậy. Jack sợ hãi nấp dưới gầm bàn. Có một người khổng lồ dữ tợn bước vào phòng, trong tay ông ta có một túi vàng to. Hóa ra đây chính là lâu đài của người khổng lồ độc ác.
Người khổng lồ khịt mũi đánh hơi ầm ĩ. Fee, Fi, Fo, Fum, ta ngửi thấy có mùi người lạ. Hắn nhìn quanh tìm kiếm nhưng không thấy Jack vì chú quá bé và đang trốn dưới gầm bàn. Hắn tự nhủ “có lẽ đấy chỉ là mùi thịt gà tây mình ăn tối qua thôi”. Hắn ngáp dài mệt mỏi và quyết định đi ngủ. Người khổng lồ đặt túi vàng lên bàn rồi bỏ đi. Khi hắn ta ra khỏi phòng, Jack liền chui ra khỏi chỗ nấp và leo lên trên bàn. “Ôi, túi vàng mới to làm sao, mình sẽ giàu đây”.
Jack lấy túi vàng và nhảy khỏi cái bàn. Chú rón rén đi qua căn phòng, ra khỏi lâu đài của gã khổng lồ, và hết sức mang túi vàng đến chỗ cây đậu thần. Chú leo xuống cây đậu và mang túi vàng về cho mẹ. Chú kể với mẹ về chuyện cây đậu thần, về tòa lâu đài của gã khổng lồ và đưa mẹ xem túi vàng đã lấy được.
Vài hôm sau, Jack lại leo lên cây đậu thần để lên trên trời, quay lại chỗ tòa lâu đài hôm trước. Khi chú đang khám phá tòa lâu đài thì lại nghe thấy những bước chân rầm rầm của gã khổng lồ. Chú không kịp chạy đến nấp dưới gầm bàn, nên vội chui vào nấp trong tủ.Người khổng lồ mang một ổ gà mái ra trước cái tủ.
– Gà ơi, đẻ trứng vàng cho ta đi nào! Người khổng lồ nói. Úm ba la, trứng vàng nở ra.
Con gà kêu lên quang quác rồi mau mắn đẻ một quả trứng bằng vàng ròng. Người khổng lồ nhặt lấy quả trứng và đi ra khỏi phòng. Jack nhanh chóng ra khỏi chỗ nấp, chú lấy con gà và mang ra khỏi phòng, cố chạy thật nhanh trước khi người khổng lồ phát hiện ra. Jack mang con gà về nhà cho mẹ:
– Mẹ xem này, con gà này đẻ ra những quả trứng vàng thật đấy.
Chú bắt chước người khổng lồ nói “Gà ơi, đẻ trứng vàng cho ta đi nào! Úm ba la, trứng vàng nở ra”. Con gà kêu lên quang quác rồi lại đẻ ra một quả trứng bằng vàng ròng.
Mẹ Jack nói “jack, lấy trộm của người khác là không tốt đâu con. Con phải trao đổi một cách công bằng và sống lương thiện”
– Nhưng, mẹ xem, con gà này đẻ ra trứng vàng, mình sẽ không phải làm việc nữa mà vẫn đủ sống
Jack ngày càng trở nên tham lam, mỗi ngày chú lại quay lại tòa lâu đài và lấy trộm thêm nhiều đồ vật của người khổng lồ.
Một ngày kia, khi lẻn vào lâu đài, chú thấy người khổng lồ nói với cái đàn hạc:
– Úm ba la, hãy chơi nhạc cho ta.
Và cây đàn bỗng tự chơi những giai điệu du dương. Tiếng nhạc này làm ta buồn ngủ quá, ta phải đi ngủ thôi. Khi người khổng lồ về phòng ngủ, Jack lại trèo lên bàn và lấy trộm cây đàn hạc
Nhưng không ngờ, khi chú chạm tay vào cây đàn thì tiếng nhạc tự động vang lên. Cây đàn kêu lên: “ông chủ, ông chủ, có ai đang lấy trộm tôi”.
Nghe thấy tiếng cây đàn hạc kêu cứu, người khổng lồ thức dậy và bước ra khỏi phòng. Jack không kịp chạy trốn, cậu bị người khổng lồ bắt gặp với cây đàn trong tay.
– A, sao nhà ngươi dám ăn trộm cây đàn của ta? Chính là ngươi đã ăn trộm túi tiền vàng và con gà thần của ta, có đúng không?
Jack luồn qua chân người khổng lồ và cố sức chạy trốn. Người khổng lồ giận dữ đuổi theo. Jack sợ hãi trượt từ trên cây đậu xuống, cậu thấy tiếng gió rít bên tai mình. người khổng lồ cũng đang tụt xuống ngay sau lưng cậu.
Khi Jack chạm đất, cậu đi tìm ngay chiếc rìu và cố hết sức chặt cây đậu thần. Cây đậu bị đổ và ngã kềnh ra đất. Người khổng lồ bị tuột tay, rơi xuống đất và lăn ra chết.
Và Jack đã nhận được một bài học đích đáng, chú hiểu rằng không được tham lam lấy đồ của người khác, và phải lao động cần cù để có cuộc sống tốt đẹp.